Chưa có nhận xét nào

MAHĀSATIPAṬṬHĀNASUTTA – KINH ĐẠI NIỆM XỨ (Phần ngày thứ nhất)

Evaṃ me sutaṃ— ekaṃ samayaṃ bhagavā kurūsu viharati kammāsadhammaṃ nāma kurūnaṃ nigamo. Tatra kho bhagavā bhikkhū āmantesi: “bhikkhavo”ti. “Bhadante”ti te bhikkhū bhagavato paccassosuṃ. Bhagavā etadavoca:

“Ekāyano ayaṃ, bhikkhave, maggo sattānaṃ visuddhiyā, sokaparidevānaṃ samatikkamāya, dukkhadomanassānaṃ atthaṅgamāya, ñāyassa adhigamāya, nibbānassa sacchikiriyāya, yadidaṃ cattāro satipaṭṭhānā.
Katame cattāro? Idha, bhikkhave, bhikkhu kāye kāyānupassī viharati ātāpī sampajāno satimā, vineyya loke abhijjhādomanassaṃ; vedanāsu vedanānupassī viharati ātāpī sampajāno satimā, vineyya loke abhijjhādomanassaṃ; citte cittānupassī viharati ātāpī sampajāno satimā, vineyya loke abhijjhādomanassaṃ; dhammesu dhammānupassī viharati ātāpī sampajāno satimā, vineyya loke abhijjhādomanassaṃ.
(Uddeso niṭṭhito)
Tôi nghe như vầy. Một thuở nọ, Ðức Thế Tôn đang ở tại xứ Kurū nơi đó có một thị trấn tên là Kammāsadhamma. Tại đó, Ðức Phật đã dạy các thầy tỳ khưu như vầy: “Này các thầy tỳ khưu”. Và các thầy tỳ khưu thưa: “Xin vâng, Bạch thế Tôn”. Và Ðức Thế Tôn đã nói như sau:
“Này chư tỳ khưu, đây là con đường độc nhất để đem lại sự thanh bình cho chúng sanh, vượt thoát sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí và chứng ngộ Niết Bàn. Ðó là Tứ Niệm Xứ”.
Thế nào là bốn? Này các Tỳ khưu, ở đây vị Tỳ khưu sống quán thân trong thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán thọ trong các thọ, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán tâm trong tâm, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán pháp trong các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, để chế ngự tham ưu ở đời.

1. KĀYĀNUPASSANĀ – QUÁN THÂN
1.1. Kāyānu­passa­nā­ānā­pāna­pabba – Niệm hơi thở

Kathañca, bhikkhave, bhikkhu kāye kāyānupassī viharati? Idha, bhikkhave, bhikkhu araññagato vā rukkhamūlagato vā suññāgāragato vā nisīdati, pallaṅkaṃ ābhujitvā, ujuṃ kāyaṃ paṇidhāya, parimukhaṃ satiṃ upaṭṭhapetvā. So satova assasati, satova passasati. Dīghaṃ vā assasanto ‘dīghaṃ assasāmī’ti pajānāti, dīghaṃ vā passasanto ‘dīghaṃ passasāmī’ti pajānāti, rassaṃ vā assasanto ‘rassaṃ assasāmī’ti pajānāti, rassaṃ vā passasanto ‘rassaṃ passasāmī’ti pajānāti.

‘Sabbakāyapaṭisaṃvedī assasissāmī’ti sikkhati, ‘sabbakāyapaṭisaṃvedī passasissāmī’ti sikkhati.

‘Passambhayaṃ kāyasaṅkhāraṃ assasissāmī’ti sikkhati, ‘passambhayaṃ kāyasaṅkhāraṃ passasissāmī’ti sikkhati.

Seyyathāpi, bhikkhave, dakkho bhamakāro vā bhamakārantevāsī vā dīghaṃ vā añchanto ‘dīghaṃ añchāmī’ti pajānāti, rassaṃ vā añchanto ‘rassaṃ añchāmī’ti pajānāti; evameva kho, bhikkhave, bhikkhu dīghaṃ vā assasanto ‘dīghaṃ assasāmī’ti pajānāti, dīghaṃ vā passasanto ‘dīghaṃ passasāmī’ti pajānāti, rassaṃ vā assasanto ‘rassaṃ assasāmī’ti pajānāti, rassaṃ vā passasanto ‘rassaṃ passasāmī’ti pajānāti; ‘sabbakāyapaṭisaṃvedī assasissāmī’ti sikkhati, ‘sabbakāyapaṭisaṃvedī passasissāmī’ti sikkhati; ‘passambhayaṃ kāyasaṅkhāraṃ assasissāmī’ti sikkhati, ‘passambhayaṃ kāyasaṅkhāraṃ passasissāmī’ti sikkhati.

Iti ajjhattaṃ vā kāye kāyānupassī viharati, bahiddhā vā kāye kāyānupassī viharati, ajjhattabahiddhā vā kāye kāyānupassī viharati; samudayadhammānupassī vā kāyasmiṃ viharati, vayadhammānupassī vā kāyasmiṃ viharati, samuda­yava­yadhammā­nupassī vā kāyasmiṃ viharati. ‘Atthi kāyo’ti vā panassa sati paccupaṭṭhitā hoti. Yāvadeva ñāṇamattāya paṭissatimattāya anissito ca viharati, na ca kiñci loke upādiyati. Evampi kho, bhikkhave, bhikkhu kāye kāyānupassī viharati.
(Ānāpānapabbaṃ niṭṭhitaṃ)
Này các Tỳ khưu, thế nào là Tỳ khưu sống quán thân trong thân?

Này các Tỳ khưu, ở đây Tỳ khưu đi đến khu rừng, đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, và ngồi kiết già, lưng thẳng và an trú chánh niệm trước mặt. Tỉnh giác, vị ấy thở vô; tỉnh giác, vị ấy thở ra. Thở vô dài, vị ấy tuệ tri: “Tôi thở vô dài”; hay thở ra dài, vị ấy tuệ tri: “Tôi thở ra dài”; hay thở vô ngắn, vị ấy tuệ tri: “Tôi thở vô ngắn”; hay thở ra ngắn, vị ấy tuệ tri: “Tôi thở ra ngắn”; Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở vô”, vị ấy tập; “Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở ra”, vị ấy tập; “An tịnh thân hành, tôi sẽ thở vô”, vị ấy tập; “An tịnh thân hành, tôi sẽ thở ra”, vị ấy tập.

Như một người thợ tiện rành nghề và học trò của ông ta khi quay một vòng dài thì biết rằng: “tôi quay một vòng dài”, khi quay một vòng ngắn thì biết rằng: “tôi quay một vòng ngắn”. Cũng vậy, Tỳ khưu khi thở vào một hơi dài biết rằng: “tôi thở vào dài”, Tỳ khưu khi thở ra một hơi dài biết rằng: “tôi thở ra dài”, Tỳ khưu khi thở vào một hơi ngắn biết rằng: “tôi thở vào ngắn”, Tỳ khưu khi thở ra một hơi ngắn biết rằng: “tôi thở ra ngắn”. “Nhận thức rõ toàn thể hơi thở vào” (khởi đầu, kéo dài và chấm dứt) tôi sẽ thở vào, Tỳ khưu tinh tấn như vậy (nghĩa là thầy tỳ khưu tự huấn luyện như vậy). “Nhận thức rõ toàn thể hơi thở ra” (khởi đầu, kéo dài và chấm dứt) tôi sẽ thở ra, tỳ khưu tinh tấn như vậy. Tinh tấn chú tâm vào hơi thở khi hơi thở trở nên vi tế khi thở vào, Tỳ khưu thở vào. Tinh tấn chú tâm vào hơi thở khi hơi thở trở nên vi tế khi thở ra, Tỳ khưu thở ra.

Như vậy, vị ấy sống, quán thân trong nội thân hay sống quán thân trong ngoại thân; hay sống quán thân trong cả nội thân, ngoại thân; hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trong thân; hay sống quán tánh diệt tận trong thân; hay sống quán tánh sanh diệt trong thân. “Có thân đây”, vị ấy an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước vật gì ở trên đời. Này các Tỳ khưu, như vậy Tỳ khưu sống quán thân trong thân.

Lại nữa, này các Tỳ khưu, Tỳ khưu đi, tuệ tri: “Tôi đi”; hay đứng, tuệ tri: “Tôi đứng”; hay ngồi, tuệ tri: “Tôi ngồi”; hay nằm, tuệ tri: “Tôi nằm”. Thân thể được sử dụng như thế nào, vị ấy biết thân như thế ấy.

Như vậy, vị ấy sống quán thân trong nội thân; hay vị ấy sống quán thân trong ngoại thân; hay vị ấy sống quán thân trong cả nội thân, ngoại thân. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trong thân; hay vị ấy sống quán tánh diệt tận trong thân; hay vị ấy sống quán tánh sanh diệt trong thân. “Có thân đây”, vị ấy an trú chánh niệm như vậy với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỳ khưu, như vậy Tỳ khưu sống quán thân trong thân.

GIẢNG GIẢI: Kinh Ðại Niệm Xứ là một kinh vô cùng quan trọng đối với những người hành Thiền Minh Sát bởi vì tất cả những lời chỉ dẫn trực tiếp hay gián tiếp về thiền tập của Ðức Phật đều được ghi lại một cách súc tích trong kinh này. Nếu bạn thật tâm và nghiêm túc trong việc hành Thiền Minh Sát thì bạn phải thông suốt kinh Ðại Niệm Xứ.
Những lời diễn giải về kinh Ðại Niệm Xứ trong cuốn sách này căn cứ trên chú giải, phụ chú giải và bản chú giải bằng tiếng Miến do Ngài Mahasi viết. Ngài là một vị thiền sư nổi tiếng, thành công trong việc dạy thiền và có lẽ là một vị thiền sư Miến Ðiện được nhiều người biết đến nhất ở Tây phương.
Tên Pāḷi của bài kinh này là Mahā¬satipaṭṭhāna Sutta (Ðại Niệm Xứ), có nghĩa là: “Bài pháp lớn về căn bản của sự chánh niệm”, “Bài pháp lớn về sự thiết lập chánh niệm” hay ” Bài pháp lớn về các niệm xứ”. Trong bài kinh Mahā¬satipaṭṭhāna Sutta (Ðại Niệm Xứ), Ðức Phật dạy cách thực hành Thiền Tứ Niệm Xứ hay Thiền Minh Sát. Theo lời dạy trong kinh, có bốn nơi để thiết lập chánh niệm. Và trong cuốn sách này chúng tôi cũng sẽ trình bày và giải thích bốn nơi để tạo dựng chánh niệm hay là bốn niệm xứ đó.
Trước khi làm việc gì, người Phật tử thường tỏ lòng thành kính đối với Phật, Pháp, Tăng. Bởi vậy, mỗi khi muốn viết một đề tài Phật Pháp nào người Phật tử thường viết trước tiên câu sau đây: Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhasā. Chúng tôi cũng bắt đầu cuốn sách này với câu như vậy: Con đem hết lòng thành kính làm lễ Ðức Thế Tôn, Ngài là bậc Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác.
*“Tôi nghe như vầy”
Các bài kinh (Sutta) thường được khởi đầu bằng câu giới thiệu: “Tôi nghe như vầy”. Chữ “Tôi” ở đây chỉ cho Ðại Ðức Ānanda, anh em chú bác với Ðức Phật. Ðại Ðức Ānanda làm thị giả cho Ðức Phật trong hai mươi lăm năm. Ðại Ðức có cùng tuổi và sinh cùng ngày với Ðức Phật. Ðức Phật dạy đạo trong bốn mươi lăm năm, nhưng hai mươi năm đầu tiên Ngài không có một vị thị giả thường trực; lúc vị tỳ khưu này, khi vị tỳ khưu kia thay nhau làm thị giả. Bắt đầu từ năm thứ hai mươi mốt, Ðại Ðức Ānanda trở thành thị giả thường trực của Ngài.
Tưởng cũng nên biết tại sao Ðại Ðức Ānanda được giao cho trách vụ này. Vào năm thứ hai mươi mốt, Ðức Phật tuyên bố Ngài cần một thị giả thường trực. Nghe lời tuyên bố này nhiều vị đại đệ tử xin được làm thị giả, nhưng tất cả đều bị Ðức Phật từ chối. Lúc ấy trong pháp đường vài vị tỳ khưu khuyên Ðại Ðức Ānanda xin làm thị giả, nhưng Ðại Ðức Ānanda trả lời: “Nếu Ðức Phật thực sự muốn tôi làm thị giả thì chính Ngài sẽ bảo tôi. Tôi sẽ không làm thị giả nếu không được Ðức Phật yêu cầu”. Bởi thế, cuối cùng, Ðức Phật đã yêu cầu Ðại Ðức Ānada làm thị giả.
Ðại Ðức Ānanda trả lời rằng Ðại Ðức chỉ chấp nhận làm thị giả với một số điều kiện. Có tất cả tám điều kiện: Bốn đặc ân “khước từ” và bốn đặc ân “khẩn khoản”.
Bốn đặc ân khước từ gồm:
1. Ðức Phật không ban y tốt cho Ðại Ðức Ānanda vì Ðại Ðức là thị giả của Ngài.
2. Ðức Phật không ban thực phẩm mà Ngài đã thọ nhận cho Ðại Ðức Ānanda với lý do Ðại Ðức là thị giả của Ngài.
3. Ðức Phật không được bảo Ðại Ðức Ānanda ở trong phòng của Ðức Phật ở tại Gandhakuṭi hoặc ban cho Ðại Ðức Ānanda một phòng riêng bởi vì Ðại Ðức là thị giả của Ngài.
4. Nếu có ai thỉnh Ðức Phật thọ trai thì lời thỉnh mời này không bao gồm cả việc thỉnh mời Ðại Ðức Ānanda trong đó.
Sở dĩ nêu ra bốn điều khước từ vì Ðại Ðức Ānanda muốn tránh những lời gièm pha rằng sẽ được những lợi lộc vật chất do việc Ðại Ðức làm thị giả cho Ðức Phật.
Bốn đặc ân khẩn khoản gồm:
1. Ðại Ðức Ānanda được quyền chấp nhận mọi lời thỉnh mời Ðức Phật, và một khi Ðại Ðức Ānanda đã chấp nhận một lời thỉnh mời nào thì Ðức Phật phải đi đến nơi đã được thỉnh mời đó.
2. Ðại Ðức Ānanda được phép, bất kỳ lúc nào, đưa những tín đồ từ phương xa đến gặp Phật.
3. Ðại Ðức Ānanda được phép đến trình bày với Ðức Phật ngay mỗi khi có vấn đề gì khởi sinh,. Nếu có hoài nghi điều gì thì Ðại Ðức Ānanda được phép đến gặp Ðức Phật để được Ngài giải tỏa nghi ngờ. Ðiều này có nghĩa là Ðức Phật phải luôn luôn sẵn sàng trả lời mọi câu hỏi của Ðại Ðức Ānanda.
4. Ðại Ðức Ānanda sẽ được Ðức Phật cho nghe lại mọi bài pháp mà Ngài đã thuyết trong lúc Ðại Ðức Ānanda vắng mặt.
Ðiều sau cùng này rất quan trọng vì nó tương hợp với câu: “Tôi nghe như vầy”. Ðức Phật chấp nhận tám điều kiện này, do đó Ðại Ðức Ānanda trở thành thị giả của Ðức Phật. Ðức Phật luôn luôn thuyết lại cho Ðại Ðức Ānanda nghe những bài pháp và những lời giảng dạy mà Ngài đã thuyết trong lúc Ðại Ðức Ānanda vắng mặt. Trong Chú giải về cuốn đầu tiên của bộ Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) có ghi lại những lời tán dương Ðại Ðức Ānanda như sau:
“Trưởng lão là một người có rất nhiều kinh nghiệm, một học giả về Tam tạng (Piṭaka). Ngài có thể học, tụng đọc và giảng giải trong khi đứng (nghĩa là trong chốc lát, Ðại Ðức Ānanda có thể học, tụng đọc và giảng giải) mười lăm ngàn đoạn hay sáu mươi ngàn câu kệ một cách dễ dàng như đang nhặt lá và hoa. Ðó là khả năng đặc biệt của Trưởng lão. Ngoài Ðức Phật ra không ai có thể dạy hay đạt được khả năng giảng dạy rành mạch để cho Trưởng lão nhớ biết giáo pháp tận tường như vậy”
Ðức Phật là người duy nhất có thể dạy Ðại Ðức Ānanda. Ðại Ðức có trí thông minh nhạy bén, lãnh hội nhanh chóng mọi lời giáo huấn của Ðức Phật.
Câu “Tôi nghe như vầy” và phần tiếp theo câu ấy là những lời do Ðại Ðức Ānanda nói ra trong kỳ Kết Tập Tam Tạng lần thứ nhất, được triệu tập khoảng ba tháng sau khi Ðức Phật nhập diệt. Sau khi Ðức Phật nhập diệt, Ðại Ðức Mahā Kassapa, trưởng đệ tử của Ðức Phật, quyết định triệu tập Ðại Hội và chọn năm trăm vị Thánh Arahán tham dự. Trong kỳ Ðại Hội Kết Tập Tam Tạng này, tất cả những lời dạy của Ðức Phật được sưu tập và thận trọng xem xét. Chỉ khi nào đại hội công nhận những lời dạy này chính thật là những lời dạy của Ðức Phật thì mới được chấp nhận đưa vào bộ sưu tập và được toàn thể đại hội cùng tụng đọc. Việc cùng tụng đọc cho thấy rằng những lời dạy được toàn thể đại hội nhất trí chấp nhận đó là những lời do chính Ðức Phật dạy. Lúc bấy giờ việc viết ra giấy những lời dạy của Ðức Phật chưa được phổ biến nên những lời dạy này được lưu giữ bằng cách tụng đọc thuộc lòng mà thôi.
Những lời dạy của Ðức Phật không những được tụng đọc thuộc lòng mà còn được phân loại ra thành nhiều bộ. Sự phân loại phổ thông nhất là phân thành Tạng (Piṭaka) gồm có Tạng Luật (Vinaya Piṭaka) – giới luật của Tăng và Ni, Tạng Kinh (Sutta Piṭaka) – những bài giảng của Ðức Phật và Tạng Vi Diệu Pháp (Abhidhamma Piṭaka) – những giáo pháp cao thâm. Kinh Ðại Niệm Xứ (Mahā-satipaṭṭhāna Sutta) thuộc về Tạng Kinh. Những lời dạy của Ðức Phật được lưu giữ từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng cách truyền khẩu, mãi cho đến năm trăm năm sau, kể từ lúc Ðức Phật nhập diệt, mới được viết ra trên lá buông ở Sri Lanka.
Như đã nói ở trên, trước tiên Ðại Ðức Mahā Kassapa đặt câu hỏi về những lời dạy do chính Ðức Phật thuyết và có hai Ðại Ðức trả lời câu hỏi của Ðại Ðức Kassapa. Ðại Ðức Upali trả lời về Tạng Luật (Vinaya) và Ðại Ðức Ananda trả lời về Tạng Kinh (Sutta). Tất cả gồm tám mươi bốn ngàn đoạn thuyết giảng.
Khi Ðại Ðức Maha Kassapa đặt câu hỏi về Kinh Ðại Niệm Xứ (Mahā¬satipaṭṭhāna Sutta), Ðại Ðức Ānanda đã trả lời, bắt đầu bằng câu: Tôi nghe như vầy. Khi nói: Tôi nghe như vầy, Ðại Ðức Ānanda đã loại bỏ tư cách cá nhân của mình lúc lập lại những lời dạy của Ðức Phật và chỉ đóng vai trò một chứng nhân của Ðức Phật khi tụng đọc lại những lời dạy này. Ngài tổng kết những lời dạy của Ðức Phật để tạo nên kho tàng pháp bảo hướng dẫn cho những ai muốn đi trên đường giải thoát. Ðại Ðức đã tạo nên một đức tin vững vàng nơi trời và người khi Ðại Ðức xác quyết: “Ðây là những lời nói mà tôi đã được nghe từ chính nơi Ðức Phật, bởi vậy không nên phân vân hoặc hoài nghi những lời dạy này về nghĩa lý hay ý tưởng, về câu văn hay vần điệu.”
Tôi nghe như vầy. Một thuở nọ, Ðức Thế Tôn đang ở tại xứ Kurū nơi đó có một thị trấn tên là Kammāsadhamma.
“Một thuở nọ”: Mặc dầu Ðại Ðức Ānanda biết rõ thời điểm kinh này được thuyết ra, nhưng để ngắn gọn Ðại Ðức chỉ nói: “Một thuở nọ”. Ðối với Ðại Ðức, có lẽ, để tiết kiệm thì giờ, nhưng đối với chúng ta, những người thuộc về một thời đại khác, thì đây không phải là điều may mắn bởi vì chúng ta không hiểu đích xác kinh này đã được thuyết ra vào lúc nào. Nếu Ðại Ðức Ānanda quan tâm đến những chi tiết đó thì chúng ta có thể xếp kinh này và các kinh khác theo thứ tự thời gian (biên niên). Nhưng nay thì chúng ta không thể làm được điều đó, chúng ta chỉ có thể đoán kinh nào được thuyết trước kinh nào mà thôi.
“Ở Kurū”: Kurū là tên một quận hạt hay một xứ nhỏ ở Ấn Ðộ. Theo tiếng Pāḷi thì Kurū phải viết ở thể số nhiều. Nguyên thủy “Kurū” là tên của những người đầu tiên đến trú ngụ ở xứ này. Về sau tên này được dùng để chỉ cho một xứ thì thể số nhiều cũng vẫn được giữ nguyên. Bởi vậy, mặc dầu chỉ có một quận hạt nhưng chữ Pāḷi đòi hỏi phải ở thể số nhiều, do đó tiếng Pāḷi viết là “Kurūsu” (số nhiều của chữ Kuru).
“Ở trong xứ Kurū có một thị trấn tên là Kammāsadhamma”: Sở dĩ thị trấn có tên là Kammāsadhamma bởi vì nơi đây vị vua ăn thịt người có tên là Kammāsapada (chân có đốm) được thuần hóa trở thành một vị vua lương thiện. Một số người thích viết là Kammāsadhamma, giải thích rằng thị trấn này được gọi tên như vậy do dân Kurū có truyền thống thực hành giáo pháp (dhamma) một cách tốt đẹp (kammāsa).
Tại đó, Ðức Phật đã dạy các thầy tỳ khưu như vầy: “Này các thầy tỳ khưu”. Và các thầy tỳ khưu thưa: “Xin vâng, Bạch thế Tôn”. Và Ðức Thế Tôn đã nói như sau:
Ðức Phật thường gọi các tu sĩ là Bhikkhu (tỳ khưu). Bhikkhu là những người cao thượng, sống đời phạm hạnh và thực hành Giáo Pháp. Nhưng khi dùng chữ Bhikkhu không có nghĩa là Ðức Phật không nói đến những người không phải là tu sĩ. Bất kỳ ai chấp nhận và thực hành những lời dạy của Ðức Phật đều được gọi là Bhikkhu. Bởi vậy, khi Ðức Phật nói: “Này các thầy tỳ khưu” thì phải được hiểu là cả tăng, ni và người tại gia cư sĩ đều được nói đến.
Ðây là con đường duy nhất để thanh lọc (tâm) chúng sanh, chấm dứt lo âu phiền muộn, uất ức than khóc, diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt Thánh Ðạo và Giác ngộ Niết Bàn. Ðó là Bốn Niệm Xứ.
“Ðây là con đường duy nhất”: Muốn hiểu rõ câu này bạn phải hiểu danh từ Pāḷi về chữ “Con đường duy nhất”. Tiếng Pāḷi gọi con đường duy nhất là “ekāyāna”. Eka có nghĩa là một và ayāna có nghĩa là con đường. Vậy ekāyana có nghĩa là một con đường. Chữ “ekāyana” được giải nghĩa theo năm cách:
a) Nghĩa đầu tiên là: Ðây là con đường “đơn độc” không có ngã rẽ. Vì không có ngã rẽ nên khi đi trên con đường này bạn được bảo đảm từ lúc bắt đầu cho đến lúc giải thoát.
b) Nghĩa thứ hai là: Phải đi “một mình” trên con đường này. Trong lúc hành thiền bạn phải thực hiện hành trình một cách đơn độc, không người đồng hành. Bạn có thể ở trong nhóm, bạn có thể ở trong một khóa thiền tập, nhưng thật sự bạn đi trên con đường riêng của mình. Bạn đơn độc. Không ai đi chung với bạn. Không ai có thể ban tặng cho bạn sự định tâm và trí tuệ của họ, và bạn cũng không thể tặng sự định tâm và trí tuệ của bạn cho ai được cả. Bởi vậy, mặc dầu bạn có thể ở chung nhóm, nhưng thật ra bạn đang hành thiền một mình. Do đó, đây là con đường “duy nhất”, “con đường bạn phải đi một mình”.
c) Nghĩa thứ ba: “Ðây là con đường của một Ðấng”. “Con đường của một Ðấng” có nghĩa là “con đường của Ðấng Cao Thượng”, con đường do Ðức Phật tìm ra.
d) Nghĩa thứ tư: “Ðây là con đường duy nhất” vì con đường này chỉ dẫn đến một mục tiêu duy nhất, đó là Niết Bàn; bởi thế khi đi trên con đường này chắc chắn bạn sẽ đạt đến mục tiêu. Do đó, Niết Bàn là mục tiêu duy nhất mà bạn đạt đến khi bạn đi trên con đường này.
e) Nghĩa thứ năm: “Ðây là con đường duy nhất đưa đến Niết bàn”, không có con đường nào khác. Satipaṭṭhāna hay con đường chánh niệm là con đường duy nhất đưa đến Niết Bàn, chấm dứt đau khổ, hủy diệt mọi phiền não.
“Ðể thanh lọc chúng sanh”: Nghĩa là để thanh lọc tâm chúng sanh. Tâm của tất cả chúng sanh bị ô nhiễm bởi nhiều loại phiền não. Tâm chúng ta hầu như không lúc nào trong sạch, luôn luôn bị tham lam, sân hận, si mê, kiêu mạn chế ngự. Các loại phiền não này làm ô nhiễm tâm ta. Thiền Minh Sát giúp chúng ta thanh lọc tâm. Ðây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm mọi chúng sanh. Trong khi bạn thực hành Thiền Minh Sát thì các phiền não như tham lam, sân hận, si mê hay kiêu mạn vv… tạm thời vắng bóng. Khi bạn đạt đến cứu cánh Niết bàn thì tâm bạn hoàn toàn thoát ly khỏi mọi phiền não. Ði trên đường này chúng ta sẽ đạt đến tầng mức giác ngộ cao nhất và tâm sẽ hoàn toàn trong sạch.
“Chấm dứt lo âu phiền muộn, uất ức than khóc”: Lo âu phiền muộn, uất ức than khóc có thể được chế ngự bởi Thiền Minh Sát. Khi hành Thiền Minh Sát bạn phải nhận biết mọi chuyện xảy ra nơi bạn. Bạn phải ghi nhận mỗi một chuyện đến với bạn trong giây phút hiện tại. Khi bạn nhận biết mọi chuyện, khi bạn quán sát mọi chuyện trong lúc hành thiền thì phiền não không thể xuất hiện. Khi đạt đến tầng mức cuối cùng là Arahán thì mọi lo âu phiền muộn, uất ức than khóc của bạn đều bị tận diệt. Có nhiều người nhờ hành Thiền Minh Sát mà lo âu phiền muộn, uất ức than khóc được chế ngự.
“Diệt thân bệnh và tâm bệnh”: Thân bệnh và tâm bệnh có thể được chế ngự nhờ hành Thiền Minh Sát. Khi ngồi thiền một thời gian lâu bạn cảm thấy đau nhức, nhưng nếu bạn kiên nhẫn quán sát hay ghi nhận sự đau và khi tâm định của bạn mạnh mẽ thì sự đau sẽ biến mất và bạn chế ngự được cơn đau. Bạn cũng có thể chế ngự được tâm bệnh nhờ Thiền Minh Sát. Khi bạn đạt đến tầng mức cao nhất thì khổ thân và khổ tâm của bạn sẽ bị tiêu diệt hoàn toàn.
“Ðể đạt thánh đạo”: Thánh đạo đây là một loại tâm xuất hiện vào lúc giác ngộ. Khi thiền sinh giác ngộ chân lý, tức Niết Bàn, thì một loại tâm khởi sinh trong họ có tên là “đạo tâm”. Ðược gọi là “đạo tâm” bởi vì khi đạt đến tầng mức tâm này thì bạn đã đạt được Niết Bàn trên đường (đạo) này.
Có bốn tầng mức giác ngộ nên cũng có bốn loại đạo tâm. Mỗi đạo tâm tận diệt một số phiền não, và khi đạt đến đạo tâm thứ tư thì tất cả mọi phiền não đều bị tận diệt. Muốn đạt Thánh Ðạo, đạt được loại tâm có khả năng tận diệt mọi loại phiền não này thì Tứ Niệm Xứ là con đường duy nhất.
“Giác Ngộ Niết Bàn”: Chúng ta có thể nói đạt thánh đạo nghĩa là đạt đạo tâm và Giác Ngộ Niết Bàn là đạt đạo quả. Sau đạo tâm thì quả tâm đến ngay. Nếu có sự hiểu biết chút ít về Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) thì bạn sẽ hiểu rõ ràng về vấn đề này. Cần phải nói thêm là cả đạo tâm và quả tâm đều lấy Niết Bàn làm đối tượng và “thấy” Niết Bàn một cách trực tiếp. Cả hai thời điểm trên đều được gọi là thời điểm giác ngộ Niết Bàn.
Tóm lại, Ðức Phật dạy, đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm bạn, để chế ngự lo âu phiền muộn, uất ức than khóc, để diệt thân bệnh và tâm bệnh, để đạt Thánh Ðạo và Giác Ngộ Niết Bàn. Và con đường duy nhất này không gì ngoài Tứ Niệm Xứ.
Bốn (niệm xứ hay nơi thiết lập chánh niệm) đó là gì? Này các thầy Tỳ khưu, ở đây, theo lời dạy này, thầy Tỳ khưu quán sát thân trong thân, tinh cần, tỉnh giác và chánh niệm để loại bỏ mọi tham ái và ưu phiền (sân hận) trên đời.
Ðó là những lời dạy ngắn gọn về Thiền Minh Sát. Thiền sinh quán sát thân trong thân. Ðó là cách hành thiền. Bạn quán sát và chánh niệm thân trong thân. Chữ thân ở đây được lập lại để bạn ghi nhớ chắc chắn rằng: trong khi niệm thân, bạn chỉ niệm thân trong thân thôi chứ không niệm thân trong thọ, niệm thân trong tâm hay niệm thân trong pháp.
“Tinh cần, tỉnh giác và chánh niệm”: Câu này rất quan trọng vì nó nói rõ bạn phải hành thiền như thế nào. Khi bạn tham thiền, khi bạn quán sát thân trong thân nghĩa là khi bạn ghi nhận mọi chuyện xảy ra trong thân; bạn phải hết sức tinh cần, tỉnh giác và chánh niệm. Tinh cần có nghĩa là bạn phải nỗ lực, cố gắng để ghi nhớ hay theo dõi những gì đang xảy ra trong thân bạn. Nếu không có tinh cần thì bạn không thể chú tâm trên đối tượng và không thể hành thiền. Giữ tâm trên đối tượng không phải là điều dễ dàng, bởi vậy cần có nhiều nỗ lực tinh cần.
Bạn cần phải “tỉnh giác và chánh niệm”: Khi hành thiền bạn phải luôn luôn chánh niệm. Bạn phải chánh niệm trên hơi thở hay sự chuyển động của bụng, tư thế và các tác động nhỏ của cơ thể. Chánh niệm chẳng khác nào viên đá đụng vào tường. Muốn ném viên đá, bạn phải dùng sức cố gắng. Bạn ném viên đá với sự cố gắng và viên đá đụng vào tường. Chánh niệm đụng vào đối tượng chẳng khác nào viên đá đụng vào tường. Dầu là đối tượng nào đi nữa – hơi thở, chuyển động của bụng hoặc các tác động nhỏ của cơ thể – tâm bạn cũng phải hướng đến đối tượng. Sự đụng tâm vào đối tượng là chánh niệm.
Khi có chánh niệm phối hợp với tinh tấn thì tâm bạn sẽ nằm trên đối tượng một thời gian. Viên đá khi đụng vào tường, nếu tường được trét bùn ướt thì viên đá sẽ dính vào đó. Cũng vậy, khi tâm đi đến đối tượng và khi được chánh niệm và tinh tấn hỗ trợ thì sẽ nằm trên đối tượng. Khi tâm nằm trên đối tượng thì gọi là định. Bởi vậy, khi bạn có chánh niệm thì bạn sẽ có định. Chỉ khi nào tâm định phát triển thì bạn mới có trí tuệ và mới hiểu bản chất của sự vật, hiểu biết sự vật một cách rõ ràng. Bởi vậy khi nói bạn phải có tỉnh giác và chánh niệm cũng có nghĩa là bạn phải có định tâm. Cần phải có tỉnh giác vì đó là trí tuệ.
Hơn nữa, Niệm và Ðịnh nằm trong nhóm Ðịnh của Bát Chánh Ðạo. Bát Chánh Ðạo gồm có tám chi, chia làm ba nhóm: Giới, Ðịnh và Huệ. Chánh Kiến, Chánh Tư Duy thuộc về nhóm Huệ. Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng thuộc về nhóm Giới. Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm, Chánh Ðịnh thuộc về nhóm Ðịnh. Muốn thực hành một chi thì phải thực hành tất cả các chi cùng nhóm. Bởi vậy Niệm ở đây cũng có nghĩa là Ðịnh vì nằm trong nhóm Ðịnh.
Khi có định tâm, khi tâm ở trên đối tượng một thời gian, bạn sẽ thấy được bản chất của thân và tâm. Bạn sẽ thấy rõ chúng vô thường, bất toại nguyện (khổ) và không có bản chất hay vượt khỏi sự kiểm soát hoặc điều khiển của mình (vô ngã). Khi có đủ định tâm, bạn sẽ thấy rõ sự sinh diệt của thân tâm. Trong khi đó nếu có sự suy nghĩ đến với bạn, bạn chỉ cần ghi nhận chúng, chúng sẽ biến mất ngay. Bạn chỉ có thể thấy rõ được điều này khi bạn có được sự định tâm cần thiết.
Có bốn yếu tố giúp bạn hành thiền tốt đẹp. Thứ nhất: phải nỗ lực tinh tấn. Thứ hai: phải thực tập chánh niệm. Thứ ba: phải phát triển định tâm. Thứ tư: phải tỉnh giác. Ðây là bốn yếu tố mà mọi thiền sinh nghiêm túc phải phát triển đầy đủ để đạt đến mục tiêu cuối cùng là giải thoát giác ngộ.
Khi nói: “Tinh tấn, tỉnh giác và chánh niệm”, Ðức Phật dạy cho bạn cách hành thiền, cách quán sát sự vật, cách theo dõi hơi thở, chuyển động của bụng và các tác động nhỏ khác của cơ thể cũng như cách quán sát cảm giác, quán sát tâm và quán sát Pháp (dhamma). Bởi vậy, khi hành thiền bạn cần nỗ lực vun bồi chánh niệm để có đủ định tâm thấu suốt được bản chất sự vật.
“Loại bỏ tham ái và sân hận (ưu phiền) trong cõi đời”: Chữ “trong cõi đời” ở đây có nghĩa là thân thể hay ngũ uẩn thủ. “Tham ái” là tham lam, luyến ái, dính mắc, và ưu phiền (sân hận) ở đây là ác tâm, nóng giận hay phiền muộn. Qua câu trên Ðức Phật cho thấy những thứ phiền não mà chúng ta cần phải loại bỏ. Ngài cũng cho thấy kết quả của việc hành thiền, kết quả của tinh tấn, tỉnh giác và chánh niệm.
Khi bạn có tinh tấn, chánh niệm, định tâm và trí tuệ thì bạn sẽ loại bỏ được tham ái và ưu phiền (sân hận). Loại bỏ được tham và sân là bạn loại bỏ được hai loại chướng ngại to lớn. Có năm loại chướng ngại tất cả (sẽ được giải thích sau), nhưng tham ái và sân hận là hai loại lớn nhất. Khi bạn có thể loại bỏ hai loại chướng ngại lớn này thì bạn có thể loại bỏ các loại chướng ngại nhỏ hơn còn lại kia. Khi bạn nhận thức rõ hơi thở hay sự chuyển động của bụng, hoặc cảm giác, hoặc các tác động nhỏ trong cơ thể thì lúc ấy bạn sẽ không có tham lam hay dính mắc, không có ác tâm hay sân hận. Từng mỗi phút giây, bạn loại trừ được những chướng ngại trên.
Có hai sự loại trừ: “sát na loại trừ” (loại trừ trong từng khoảnh khắc một) và “tạm thời loại trừ”. Trong suốt thời gian có “sát na loại trừ” thì chướng ngại được loại bỏ từng sát na một. Tại sát na này, chướng ngại không hiện diện, nhưng sát na sau, chướng ngại có thể lại hiện ra. Chúng chỉ được loại trừ vào sát na khi có những tâm sở thiện sanh khởi và hiện diện trong tâm (khi những tâm sở thiện sanh khởi thì chúng sẽ chiếm chỗ những tâm sở bất thiện). “Tạm thời loại trừ ” là loại trừ trong một thời gian dài hơn “sát na loại trừ”. Ngài Mahasi đã giảng giải” tạm thời loại trừ” như sau:
”Khi thiền sinh kiên trì quán sát mỗi một hiện tượng thân tâm đang diễn ra và hiểu rõ ràng mỗi hiện tượng là vô thường, bất toại nguyện, vô ngã và không đẹp đẽ, thì tinh tấn, chánh niệm và định tâm sẽ phát triển. Do sự phát triễn này, tâm của thiền sinh trở nên trong sạch, tinh tế đến độ tham lam và sân hận không thể hiện khởi ngay cả trên những đối tượng không được quán sát.
Ngay cả khi thiền sinh nghỉ ngơi, các hình thức thô tướng của tham và sân cũng không hiện khởi khiến cho thiền sinh có cảm tưởng rằng các thô tướng của tham và sân này chẳng bao giờ có thể khởi sinh được nữa. Nhờ chánh niệm, nhờ sự có mặt của những yếu tố trong nhóm định mà những phiền não của đối tượng quán sát và đối tượng không được quán sát đều được chế ngự. Tình trạng này được gọi là “tạm thời loại trừ.”
Ðó là sự loại trừ tham và sân. Người hành thiền sẽ có kinh nghiệm về hai loại loại trừ này. Mỗi khi quán sát, thiền sinh sẽ có “sát na loại trừ” trên đối tượng quán sát và “tạm thời loại trừ” trên đối tượng không được quán sát. Muốn có được hai lợi ích loại trừ này thiền sinh phải thực hành sự quán sát thân thể, quán sát mọi hiện tượng vật chất đang xảy ra một cách rõ ràng trong giây phút hiện tại. Ðó là những điều mà Ðức Phật dạy.
(Những lời chỉ dẫn của Ngài Mahasi về cách hành thiền sẽ được nói đến nhiều chi tiết hơn ở Phần Ba)
Bây giờ, khi bạn chú tâm vào hơi thở chẳng hạn và bạn niệm thầm “vào ra, vào ra” thì ngay cả trước khi bạn có sự định tâm vững chắc, bạn cũng có những sát na định. Rồi bạn bị phóng tâm và bạn lại định tâm trở lại, sau đó bạn bị phóng tâm nữa v.v… Vào những sát na có định tâm bạn loại bỏ được tham và sân nên bạn có “sát na loại trừ”. Ở một sát na này phiền não bị loại trừ và ở sát na kế, phiền não có thể tái xuất hiện.
Sau một thời gian, khi việc hành thiền của bạn tiến triển tốt đẹp và bạn có thể giữ tâm trên đối tượng trong một khoảng thời gian lâu hơn thì phiền não cũng được “tạm thời loại trừ” trong một thời gian lâu hơn. Rồi bạn sẽ thấy rằng, ngay trên đối tượng không được quán sát, phiền não cũng bị chế ngự. Khi bạn đạt đến tầng mức tiến bộ này, bạn đã loại bỏ được phiền não do “tạm thời loại trừ”. Bởi vì sự loại trừ này chỉ có tính cách tạm thời nên phiền não sẽ đến trở lại với bạn khi bạn từ bỏ hành thiền.
Còn một loại loại trừ khác, đó là “vĩnh viễn loại trừ”. “Vĩnh viễn loại trừ” sẽ đạt được vào sát na đạo tâm, nghĩa là vào thời điểm giác ngộ Niết Bàn. Bởi vậy, khi đạt đạo tâm, bạn sẽ trừ khử, chấm dứt, tận diệt, loại trừ tất cả các chướng ngại và những loại phiền não khác. Một khi đã bị loại trừ vĩnh viễn thì chúng sẽ không trở lại với bạn nữa.
Thầy tỳ khưu quán sát thọ trong thọ, tinh cần, tỉnh giác và chánh niệm để loại trừ mọi tham ái và ưu phiền (sân hận) trong cõi đời.
Chữ “trong cõi đời” ở đây nghĩa là “trong Thọ”. Thiền sinh ghi nhớ hay chánh niệm trên cảm thọ của mình. Có ba loại cảm thọ: thọ vui, thọ khổ và thọ vô ký (không vui không khổ). Thiền sinh nhận biết mọi cảm thọ của mình đang xảy ra trong giây phút hiện tại.
Thầy tỳ khưu quán sát tâm trong tâm, tinh cần tỉnh giác và chánh niệm để loại trừ mọi tham ái và ưu phiền (sân hận) trong cõi đời.
Chữ “trong cõi đời” ở đây có nghĩa là “trong Tâm”. Ðối tượng để tham thiền ở đây là quán sát các loại tâm khác nhau. Có tâm tương hợp với tham, có tâm tương hợp với sân, có tâm tương hợp với si vv… Khi bạn muốn một thứ gì đó và bạn nhận biết được ý muốn này bằng cách ghi nhận muốn, muốn, muốn là bạn đang quán sát tâm tương hợp với tham. Tương tự như vậy, khi bạn giận và bạn nhận biết sự nóng giận của mình bằng cách ghi nhận giận, giận, giận là bạn đang quán sát tâm tương hợp với sân vv…
Thầy tỳ khưu quán sát pháp trong pháp, tinh cần, tỉnh giác và chánh niệm để loại trừ mọi tham ái và sân hận (ưu phiền) trong cõi đời.
Chữ “trong cõi đời” ở đây có nghĩa là “trong Pháp”. Chữ Pháp là chữ dịch danh từ Dhamma trong tiếng Pāḷi. Dhamma có rất nhiều nghĩa và là chữ Pāḷi khó nhất để dịch sang một ngôn ngữ khác. Một số người dịch dhamma là “đối tượng của tâm”. Mặc dù dịch như thế không hoàn toàn sai, nhưng không bao hàm được nghĩa của chữ dhamma. Bởi thế nên để vậy đừng dịch tốt hơn.
Bạn sẽ hiểu thế nào là dhamma khi bạn đọc đến chương nói về Quán Sát Pháp. Một cách vắn tắt chữ pháp ở chương này nói đến năm chướng ngại tinh thần, năm uẩn, sáu nội căn và sáu ngoại căn, bảy pháp trợ bồ đề hay Thất Giác Chi và Tứ Diệu Ðế. Khi bạn có một sự ước muốn trong tâm và bạn nhận biết bằng cách ghi nhận có sự ước muốn, có sự ước muốn, có sự ước muốn thì đó là niệm pháp. Chúng là những chướng ngại tinh thần. Khi bạn có một sự nóng giận trong tâm và bạn nhận biết bằng cách ghi nhận: có sự nóng giận, có sự nóng giận, có sự nóng giận là bạn đã niệm pháp vv…
Ðây là tóm lược về Tứ Niệm Xứ hay bốn nơi quán niệm: quán sát thân (niệm thân), quán sát thọ (niệm thọ), quán sát tâm (niệm tâm) và quán sát pháp (niệm pháp).
Bạn sẽ thấy trong Kinh (sutta) có nhiều sự lập đi lập lại. Ðiều này không thể tránh được. Bạn phải hiểu rằng kinh này cũng như tất cả các giáo pháp khác của Ðức Phật thuộc vào một thời đại không có sách vở. Những lời dạy của Ðức Phật đều phải học thuộc lòng. Khi muốn học để nhớ một đoạn kinh nào, bạn cần phải lập đi lập lại nhiều lần. Bằng cách lập đi lập lại này bạn sẽ hiểu sâu xa hơn đoạn kinh đó. Cũng vậy, khi bạn nghe một người nào nói bạn không trở lại phần đã nghe như khi bạn đọc sách. Sự lập đi lập lại giúp bạn hiểu đầy đủ hơn để bạn có thể nắm vững nghĩa lý hơn. Mặc dầu sự lập đi lập lại có thể làm bạn nhàm chán, nhưng không thể tránh được điều này.

(Xem tiếp trong phần Quán Thân)

(Trích từ cuốn “Đại niệm xứ” do Sư Khánh Hỷ biên dịch)

 

Đăng nhận xét