Chưa có nhận xét nào

Ý NGHĨA NGÀY RẰM THÁNG SÁU ĀSĀLHAPŪJA

Căn cứ theo kinh điển Pāḷi thì ngày Rằm tháng Āsālha chẳng những là ngày khởi điểm mùa an cư kiết hạ của chư Tăng hệ phái Phật giáo Theravāda mà còn đánh dấu những sự kiện quan trọng trong cuộc đời và sự nghiệp đạo pháp của Đấng Đạo Sư. Tuy nhiên ở Việt Nam, ngày Rằm tháng Sáu cũng vẫn còn xa lạ đối với đối với đa số Phật tử. Theo Tam Tạng kinh điển Pāḷi, ngày trăng tròn tháng sáu âm lịch là ngày kỷ niệm lịch sử trọng đại một lúc bốn sự kiện sau đây:

1 – Đức Bồ tát giáng trần

2 – Đức Bồ tát xuất gia

3 – Ðức Phật chuyển Pháp Luân

4 – Ðức Phật thị hiện song thông nhiếp phục ngoại đạo

1 – Đức Bồ tát giáng trần

Theo bộ Phật Sử, đức Bồ tát tu hạnh Trí tuệ phải thực hành pháp độ khoảng 20 A tăng kỳ và 100 ngàn đại kiếp. Tiền kiếp của Đức Phật Gotama là Bồ Tát Vessantara thực hành đại thí Ba-la-mật thành tựu. Sau đó hết tuổi thọ, Ngài tái sinh vào cõi Trời Ðẩu Xuất (Tusita) làm thiên nam có tên là Setaketu. Ở cõi trời này lúc nào cũng trang nghiêm và thanh tịnh, ngoài trừ những ngày trai giới: mồng 5, 8, 14, 15, 20, 23, 29 và 30. Trong những ngày này, chư Thiên các nơi vân tập về đây để nghe đức Bồ tát Setaketu thuyết pháp. Thường thường Ngài giảng về Bố thí, trì giới, tham thiền, tội ngũ trần, đề cao hạnh xuất gia, ba tướng của vũ trụ… giọng nói của Ngài thanh tao như trời Phạm thiên, y phục chỉnh tề, hào quang sáng chói. Sau thời giảng, chư Thiên vô cùng hoan hỷ, chấp thọ lời dạy của Ngài và cáo biệt trở về cung điện của mình.

Riêng đức Bồ tát lúc nào cũng trầm tư mặc tưởng về chí nguyện độ đời của mình. Vì thế Ngài lúc nào cũng trong tư thế sẵn sàng giáng phàm để thành đạo. Thông lệ các vị Bồ tát mặc dù tu hạnh nào trước khi thành Phật Chánh Đẳng Giác cũng phải ngụ trên cõi trời này để chờ thời gian thích hợp giáng phàm. Đức Bồ tát Setasetu sống trên cõi Trời Ðẩu Suất khoảng 4000 tuổi. Lúc đó, vua trời Ðế Thích và chư Thiên nhận thấy ở cõi Diêm phù đề Jampudīpa đã vắng bóng Đức Phật Chánh Giác từ lâu nên đồng nhau cung thỉnh Ngài giáng phàm để sau này cứu độ chúng sinh.

*Thỉnh Đức Bồ Tát giáng thế

Bốn Đức vua trời cõi Tứ Đại Thiên Vương, Đức vua trời Sakka cõi Tam Thập Tam Thiên, Đức vua trời Suyāma cõi Dạ Ma Thiên, Đức vua trời Santussita cõi Đẩu Suất Đà Thiên, Đức vua trời Sunimmita cõi Hóa Lạc Thiên, Đức vua trời Vasavatti cõi Tha Hóa Tự Tại Thiên, cùng chư thiên 6 cõi trời dục giới, chư phạm thiên các cõi trời sắc giới đồng tụ hội đến hầu Đức Bồ Tát thiên nam Setaketu, tất cả đồng chắp tay bạch rằng:

– Kính bạch Đức Bồ Tát thiên nam Setaketu, Ngài đã tạo đầy đủ trọn vẹn pháp hạnh ba-la-mật xong rồi. Các pháp hạnh ba-la-mật ấy không phải Ngài để mong ngôi vị các vua trời, cũng không phải để mong sinh làm phạm thiên, cũng không phải để mong ngôi vị Đức Chuyển Luân Thánh Vương; mà sự thật, các pháp hạnh ba-la-mật ấy, giúp hỗ trợ Ngài chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, để thuyết pháp tế độ chúng sinh, giải thoát khỏi khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.

Kính bạch Đức Bồ Tát thiên nam, bây giờ đúng lúc, đúng thời kỳ, để cho Ngài trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác.

Kính bạch Đức Bồ Tát thiên nam, tất cả chúng con thành kính thỉnh Ngài tái sinh làm người, để trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác, để thuyết pháp tế độ chúng sinh, giải thoát khỏi khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.

Lắng nghe lời thỉnh cầu của chư thiên, phạm thiên, Đức Bồ Tát thiên nam Setaketu chưa nhận lời thỉnh cầu ấy, mà Ngài quán xét trong thời quá khứ: “Chư Bồ Tát kiếp chót tái sinh xuống làm người, để trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, đã quán xét như thế nào?

*Quán xét 5 điều trước khi tái sinh

Theo lệ thường, Chư Bồ Tát kiếp chót tái sinh xuống làm người, thì phải quán xét đầy đủ 5 điều như sau:

Quán xét thời kỳ tuổi thọ con người.

Quán xét châu đến tái sinh.

Quán xét xứ sở đến tái sinh.

Quán xét dòng họ nơi tái sinh.

Quán xét tuổi thọ của mẫu thân, để đầu thai.

Đức Bồ Tát thiên nam Setaketu quán xét từng điều:

1.1 – Đức Bồ Tát quán xét thời kỳ tuổi thọ con người

Chư Phật Chánh Đẳng Giác không xuất hiện trên thế gian trong thời kỳ con người có tuổi thọ trên 100 ngàn năm và trong thời kỳ con người có tuổi thọ dưới 100 năm. Bởi vì, nếu con người có tuổi thọ sống lâu trên 100 ngàn năm, thì mỗi khi Đức Phật thuyết pháp rằng: “Sinh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ; hoặc ngũ uẩn có trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã…”, họ không hiểu rõ chánh pháp, phát sinh tâm hoài nghi. Do đó, Đức Phật Chánh Đẳng Giác không xuất hiện trên thế gian vào trong thời kỳ ấy.

Và nếu con người có tuổi thọ ngắn ngủi dưới 100 năm, thời kỳ ấy con người có phiền não nặng nề, làm cho tâm tư ô nhiễm tối tăm, thì mỗi khi Đức Phật thuyết giảng chánh pháp vi tế cao siêu, họ khó hiểu rõ được chánh pháp ấy. Do đó, Đức Phật Chánh Đẳng Giác cũng không xuất hiện trên thế gian vào trong thời kỳ ấy.

Trong quá khứ, Chư Phật thường xuất hiện trên thế gian, trong thời kỳ con người có tuổi thọ khoảng 100 ngàn năm đến 100 năm. Khi ấy, con người có trí tuệ sáng suốt, nếu lắng nghe Đức Phật thuyết pháp, thì có thể hiểu rõ được chánh pháp, rồi thực hành theo chánh pháp dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo – 4 Thánh Quả và Niết Bàn, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.

Đức Bồ Tát thiên nam Setaketu quán xét thấy rằng: Khi ấy, thời kỳ con người có tuổi thọ khoảng 100 năm, đó là thời kỳ thích hợp cho Đức Phật Chánh Đẳng Giác xuất hiện trên thế gian.

1.2 – Đức Bồ Tát quán xét các châu đến tái sinh

Loài người có trong 4 châu (padīpa): Đông Thắng Thần châu (Pubbavidehadīpa), Tây Ngưu Hóa châu (Aparagoyānīdīpa), Nam Thiện Bộ châu (Jampudīpa) và Bắc Câu Lưu châu (Uttarakuradīpa). Ðức Bồ tát chọn Nam thiện bộ châu, vì tại châu này chúng sinh không quá văn minh kiêu kỳ mà cũng không quá lạc hậu đần độn. Nhờ vậy, khi gặp Phật, họ sẽ dễ lãnh hội giáo lý, tu hành mau đắc đạo. Trong quá khứ, Chư Phật chỉ xuất hiện trong cõi Nam Thiện Bộ châu mà thôi, không xuất hiện ở ba châu khác. Do đó Đức Bồ Tát thiên nam Setaketu quyết định tái sinh trong cõi Nam Thiện Bộ châu.

1.3 – Đức Bồ Tát quán xét xứ sở đến tái sinh

Trong cõi Nam Thiện Bộ châu rộng lớn mênh mông, trong quá khứ, Đức Phật chỉ xuất hiện trong Trung xứ (Majjhimapadesa) mà thôi, không xuất hiện ở nơi xứ Biên địa. Do đó Đức Bồ Tát thiên nam Setaketu quyết định tái sinh nơi Trung xứ vùng Sakka kinh thành Kapilavatthu.

1.4 – Đức Bồ Tát quán xét dòng họ nơi tái sinh

Trong quá khứ, chư Bồ Tát kiếp chót trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác không sinh trong dòng họ hạ tiện, nghèo khổ, mà chỉ sinh một trong hai dòng dõi là dòng dõi Vua chúa hoặc dòng dõi Bàlamôn. Nếu thời kỳ ấy, tất cả mọi người kính trọng dòng dõi Bàlamôn, thì Đức Bồ Tát kiếp chót sẽ tái sinh vào trong dòng dõi Bàlamôn; hoặc nếu thời kỳ ấy, tất cả mọi người kính trọng dòng dõi Vua chúa, thì Đức Bồ Tát sẽ tái sinh vào trong dòng dõi Vua chúa.

Đức Bồ Tát thiên nam Setaketu quán xét thấy thời kỳ ấy, tất cả mọi người đều kính trọng dòng dõi Vua chúa hơn dòng dõi Bàlamôn, nên Ngài quyết định sinh vào dòng dõi Vua Sakya. Đức vua Suddhodana trải qua nhiều đời vua tinh khiết (không lẫn lộn với dòng khác).

1.5 – Đức Bồ Tát quán xét mẫu thân và tuổi thọ của bà

Mẫu thân của Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác trong kiếp chót phải là người đã từng tạo 10 pháp hạnh ba-la-mật suốt 100 ngàn đại kiếp trái đất và được Đức Phật Chánh Đẳng Giác trong quá khứ thọ ký rằng: Bà sẽ là mẫu thân của Đức Phật trong thời vị lai.

Mẫu thân của Đức Bồ Tát ấy phải là người có ngũ giới hoàn toàn trong sạch và trọn vẹn, không hề bị phạm giới nào; ngoài ngũ giới ra, bà còn phải thọ trì 8 giới (uposathasīla) trong những ngày giới hằng tháng. Đức Bồ Tát quán xét thấy bà Mahāmayādevī, chánh cung Hoàng hậu của Đức vua Suddhodana, có đầy đủ những tiêu chuẩn trên và tuổi thọ của bà Mahāmayādevī còn đúng 10 tháng lẻ 7 ngày, nên Đức Bồ Tát chọn bà Mahāmayādevī làm mẫu thân của Ngài.

Sau khi quán xét đầy đủ 5 điều rồi, Đức Bồ Tát thiên nam Setaketu quyết định tái sinh xuống làm người, để trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác.

Đức Bồ Tát thiên nam Setaketu truyền dạy rằng:

“Này chư thiên, chư phạm thiên, ta đồng ý nhận lời thỉnh cầu của các ngươi. Ta sẽ tái sinh xuống làm người trong cõi Nam Thiện Bộ châu, Trung xứ, kinh thành Kapilavatthu, trong dòng vua Sakya, Đức vua Suddhodana là phụ thân và bà Mahāmayādevī, chánh cung Hoàng hậu của Đức vua Suddhodana, làm mẫu thân của ta”.

Sau khi lắng nghe lời truyền dạy của Đức Bồ Tát thiên nam Setaketu, tất cả chư thiên, và chư phạm thiên vô cùng hoan hỷ cùng nhau tán dương ca tụng Đức Bồ Tát thiên nam Setaketu. Sau đó, đều cùng nhau xin phép trở về cảnh giới của mình. Chư thiên, chư phạm thiên loan báo cho khắp toàn thế giới chúng sinh biết rằng: “Đức Phật sẽ xuất hiện trên thế gian!”

Theo truyền thống của Chư Phật, có những điều cơ bản hoàn toàn giống nhau, Chư Phật Chánh Đẳng Giác trong quá khứ như thế nào, thì Đức Phật Chánh Đẳng Giác trong hiện tại cũng như thế ấy, và Chư Phật Chánh Đẳng Giác trong vị lai cũng như thế ấy. Nếu có điều khác nhau, thì khác nhau những điều chi tiết như thời gian tạo 30 pháp hạnh ba-la-mật, tuổi thọ, v.v…

*Đức Bồ Tát tái sinh làm người

Đức Bồ Tát thiên nam Setaketu quyết định từ bỏ kiếp thiên nam ở cõi trời Tusita (Đẩu Suất Đà Thiên) tái sinh đầu thai vào lòng mẫu thân Mahāmayādevī chánh cung Hoàng hậu của Đức vua Suddhodana, kinh thành Kapilavatthu vào ngày thứ năm, nhằm ngày rằm tháng sáu lúc canh chót.

*Chánh cung Hoàng hậu Mahāmayādevī thấy mộng lành

Vào ngày rằm tháng sáu (âm lịch), Chánh cung Hoàng hậu Mahāmayādevī của Đức vua Suddhodana đến hầu vị Đạo sư Kāladevila xin thọ trì uposathasīla (bát giới). Canh chót đêm ấy, trước khi Đức Bồ Tát tái sinh đầu thai vào lòng, bà Mahāmayādevī nằm mộng thấy Tứ Đại Thiên Vương cung nghinh bà lên núi Himavanta, đặt bà nằm trên một tảng đá lớn gần hồ Anotatta. Sau đó, có 4 chánh cung Hoàng hậu của Tứ Đại Thiên Vương cùng chư thiên nữ đến tắm sạch sẽ cho bà, xoa các thứ vật thơm của cõi trời, dâng những đóa hoa trời xinh đẹp, rồi cung nghinh bà đến một ngọn núi bằng bạc, có một lâu đài bằng vàng nguy nga tráng lệ, và đặt bà nằm nghiêng bên phải nghỉ ngơi nơi đó. Khi ấy, một con bạch tượng cao thượng hiện đến lâu đài bằng vàng nơi bà đang nằm nghỉ ngơi. Con bạch tượng ấy đi vòng quanh nơi bà nằm 3 vòng, rồi chui vào hông phía bên phải của bà.

Khi bà Mahāmayādevī đang nằm mộng, đó cũng là lúc Đức Bồ Tát thiên nam Setaketu từ bỏ kiếp thiên nam ở cõi trời Tusita, đồng thời với đệ nhất đại quả tâm (đại quả tâm thứ nhất, hợp với trí đồng sinh với hỷ không cần động viên) làm phận sự tái sinh đầu thai vào lòng mẫu thân Mahāmayādevī, nhằm vào ngày thứ năm canh chót đêm rằm tháng sáu (âm lịch). Khi ấy, bà chánh cung Hoàng hậu Mahāmayādevī có tuổi thọ được 55 năm 6 tháng 20 ngày. Ngay lúc ấy, trái đất rùng mình rung chuyển và có 32 hiện tượng xảy ra chưa từng thấy bao giờ; chư thiên, phạm thiên trong 10 ngàn thế giới chúng sinh vô cùng hoan hỷ loan báo tin lành rằng: “Đức Bồ Tát đã tái sinh rồi!”

*Quân sư Bàlamôn đoán mộng

Chánh cung Hoàng hậu Mahāmayādevī đã trải qua giấc mộng lành và sau khi tỉnh dậy, bà đến chầu Đức vua Suddhodana và tâu trình lên Đức vua về giấc mộng vừa qua. Sáng sớm hôm sau, Đức vua Suddhodana bèn truyền lệnh cho mời nhóm Bàlamôn quân sư vào triều yết kiến. Sau khi thiết đãi và ban thưởng xong, Đức vua bèn tường thuật lại giấc mộng canh chót đêm qua của chánh cung Hoàng hậu Mahāmayādevī cho nhóm quân sư Bàlamôn nghe để họ cùng nhau suy đoán.

Đức vua truyền hỏi rằng:

– Thưa quân sư, giấc mộng như vậy có ý nghĩa như thế nào? Xin quý quân sư tâu cho trẫm được rõ.

Một vị Bàlamôn trưởng bèn tâu rằng:

– Muôn tâu Đại vương, xin Đại vương an tâm, chánh cung Hoàng hậu đã thụ thai, thai nhi không phải là Công chúa mà chắc chắn là Thái tử, Bậc cao thượng nhất.

Nếu Thái tử sống trong triều, thì sẽ là Đức Chuyển Luân Thánh Vương trị vì thiên hạ có 4 biển làm ranh giới.

Nếu Thái tử bỏ nhà đi xuất gia, thì sẽ là Đức Phật Chánh Đẳng Giác cao thượng nhất trong toàn cõi thế giới chúng sinh.

*Oai lực kiếp chót của Đức Bồ Tát

Từ khi Đức Bồ Tát kiếp chót tái sinh đầu thai vào lòng mẫu thân, do oai lực của Đức Bồ Tát, nên ngày đêm Tứ Đại Thiên Vương theo hầu, để tỏ lòng cung kính; không phải theo hộ trì bà chánh cung Hoàng hậu Mahāmayādevī; bởi vì, Đức Bồ Tát kiếp chót có oai lực phi thường, nên không có một ai có thể làm hại bà được.

Mẫu thân của Đức Bồ Tát có giới đức tự nhiên, bà không phải đến làm học trò vị Đạo sư Kāḷadevila, để xin thọ giới như trước đây nữa; thân và tâm của bà thường an lạc. Tâm tham muốn trong dục lạc không hề phát sinh và khi Đức vua Suddhodana nhìn thấy bà liền phát sinh thiện tâm trong sáng, do đó Đức vua rất tôn trọng bà.

Đức Bồ Tát phát triển và tăng trưởng ở trong bào thai mẫu thân, như ở trong một căn phòng sạch sẽ và sang trọng. Đức Bồ Tát ngồi kiết già như vị Pháp sư đang ngồi trên pháp tòa, cho đến khi tròn đủ 10 tháng.

2 – Đức Bồ tát xuất gia

Đức Bồ Tát Thái tử Siddhattha đản sinh ra đời đến ngày thứ bảy, chánh cung Hoàng hậu Mahāmayādevī quy thiên, bởi vì, bà đã hết tuổi thọ. Bà chánh cung Hoàng hậu Mahāmayādevī hưởng thọ được 56 năm 4 tháng 27 ngày ở cõi người. Sau khi chết, do thiện nghiệp cho quả tái sinh làm vị thiên nam tên Santussita trong cõi trời Tusita (Đẩu Suất Đà Thiên) tầng trời thứ tư trong 6 cõi trời dục giới. Tầng trời thứ tư này, chư thiên có tuổi thọ 4.000 năm tuổi trời, so với thời gian cõi người bằng 576 triệu năm; bởi vì 1 ngày 1 đêm ở cõi trời này bằng 400 năm ở cõi người.

2.1 – Tuyển chọn nhũ mẫu

Đức vua Suddhodana truyền lệnh tuyển chọn nhũ mẫu để nuôi dưỡng Thái tử Siddhattha.

Những người đàn bà đủ tiêu chuẩn được tuyển chọn có 240 người, trong đó chọn 60 bà trực tiếp lo phục vụ Thái tử; ngoài ra, còn có 60 lính hầu và 60 vị quan trông coi việc nuôi dưỡng Thái tử.

Khi Hoàng hậu Mahāmayādevī quy thiên, Đức vua Suddhodana tấn phong bà Mahāpajāpatigotamī (em của bà Mahāmayādevī) lên ngôi vị chánh cung Hoàng hậu. Bà chánh cung Hoàng hậu Mahāpajāpatigotamī hạ sinh Hoàng tử Nanda, sau Thái tử Siddhattha 2-3 ngày. Bà Mahāpajāpatigotamī vốn là bà dì ruột của Thái tử Siddhattha, bà tự đảm đương địa vị nhũ mẫu nuôi dưỡng Thái tử Siddhattha, còn Hoàng tử Nanda, con đẻ của bà, giao cho nhũ mẫu khác nuôi dưỡng. Đức Bồ Tát Thái tử Siddhattha trưởng thành bằng bầu sữa ngọt lành của nhũ mẫu chánh cung Hoàng hậu Mahāpajāpatigotamī.

2.2 – Cuộc đời Thái tử Siddhattha

Năm Thái tử Siddhattha được mười sáu (16) tuổi thì Đức vua Suddhodana truyền ngôi báu cho Thái tử.

Trong buổi lễ đăng quang lên ngôi vua của Thái tử Siddhattha cùng với lễ thành hôn với Công chúa Yasodharā, Đức vua Siddhattha tấn phong Công chúa Yasodharā lên ngôi vị chánh cung Hoàng hậu. Đức vua trị vì đất nước được thanh bình thịnh vượng, thần dân thiên hạ được an cư lạc nghiệp.

Đức Thái Thượng Hoàng Suddhodana muốn Đức vua Siddhattha trở thành Đức Chuyển Luân Thánh Vương, không muốn Đức Bồ Tát đi xuất gia để trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác; cho nên, Đức Thái Thượng Hoàng truyền lệnh cho các quân lính ngăn cấm người già, người bệnh, người chết và bậc xuất gia, phải xa cách không để cho Đức vua Siddhattha nhìn thấy họ.

Đức Bồ Tát lên ngôi vua an hưởng sự an lạc trên ngai vàng thời gian trải qua 12 năm, chưa từng thấy cảnh nào để phát sinh động tâm (saṃvega).

2.3 – Nguyên nhân Đức Bồ Tát đi xuất gia

Những sự kiện xảy ra theo tuần tự thời gian, khiến Đức Bồ Tát quyết định đi xuất gia.

* Lần đầu tiên, vào ngày rằm tháng 6, Đức vua Bồ Tát đi du lãm vườn thượng uyển. Trên đường đi, bỗng nhiên Ngài nhìn thấy một người già, do chư thiên biến hóa, để làm cho Ngài phát sinh động tâm (samvega). Thật vậy, Ngài chưa từng nhìn thấy người già như thế bao giờ, cho nên Ngài suy tư: “Chắn chắn ta cũng có sự già như thế, không thể tránh khỏi sự già được”. Nỗi ưu tư tràn ngập trong lòng, không còn muốn đi du lãm nữa, Ngài truyền bảo người đánh xe đưa Ngài hồi cung.

* Lần thứ nhì, cách 4 tháng sau, vào ngày rằm tháng 10, Đức vua lại đi du lãm vườn thượng uyển. Trên đường đi, lần này Ngài nhìn thấy một người bệnh, cũng do chư thiên biến hóa. Như lần trước, Ngài suy tư: “Chắc chắn ta cũng có sự bệnh như thế, không thể tránh khỏi sự bệnh được”. Tâm trạng u buồn, Ngài truyền lệnh bảo người đánh xe đưa Ngài hồi cung.

* Lần thứ ba, cũng cách 4 tháng sau, vào ngày rằm tháng 2, để vơi bớt nỗi buồn, Đức vua lại muốn đi du lãm vườn thượng uyển. Trên đường đi, bất chợt Ngài nhìn thấy một người chết, cũng do chư thiên biến hoá. Như hai lần trước, Ngài suy tư: “Chắc chắn ta cũng có sự chết như thế, không thể tránh khỏi sự chết được”. Nỗi lo sợ phát sinh trong lòng, Ngài truyền lệnh bảo người đánh xe đưa Ngài hồi cung.

Từ đó, Đức Bồ Tát lúc nào cũng suy tư về sự già, sự bệnh, sự chết. Ngài tự hỏi, có con đường nào giải thoát sự già, sự bệnh, sự chết hay không? Sở dĩ có sự già, sự bệnh, sự chết là vì có sự tái sinh. Ôi! Sự tái sinh đáng kinh sợ thật!

* Lần thứ tư, 4 tháng sau, vào ngày rằm tháng 6, để khuây khỏa nỗi u buồn, lo sợ trong lòng, một lần nữa, Đức vua đi du lãm vườn thượng uyển. Trên đường đi, Ngài nhìn thấy một bậc xuất gia đang tĩnh tọa dưới cội cây, tỏ vẻ an nhiên tự tại, cũng do chư thiên biến hóa, để làm cho Ngài nghĩ đến việc xuất gia. Thật vậy, khi Đức Bồ Tát nhìn thấy bậc xuất gia Ngài liền trút bỏ được mọi nỗi ưu tư nặng trĩu trong lòng về sự già, sự bệnh, sự chết. Ngài quyết định xuất gia ngay đêm ấy, để tìm con đường giải thoát khỏi sự tái sinh, là giải thoát khổ già, khổ bệnh, khổ chết… Hôm ấy, Đức Bồ Tát cảm thấy vô cùng hoan hỷ, nên Ngài vẫn tiếp tục đi du lãm vườn thượng uyển.

Khi Đức Bồ Tát hồi cung, ngay trong đêm ấy Ngài nghe tin Hoàng hậu Yasodharā đã hạ sinh Hoàng tử, tình thương con trỗi dậy trong lòng, Ngài than rằng: “Sự ràng buộc lớn!”. Do đó, Hoàng tử được đặt tên là “Rāhula”. Mặc dù vậy, chí nguyện xuất gia của Đức Bồ Tát vẫn không thay đổi; đêm ấy, Ngài đến tìm Channa, quan giữ ngựa thân tín rồi bảo:

– Này Channa, đêm nay ta sẽ rời hoàng cung đi xuất gia, ngươi hãy sửa soạn cho ta con ngựa Kandaka ngay bây giờ, và nhớ không để cho một ai hay biết.

Bỗng nhiên Ngài thoáng nghĩ: “Trước khi xuất gia, ta nên đến nhìn mặt Hoàng nhi”. Ngài lén vào phòng Hoàng hậu Yasodhara, dưới ánh đèn mờ nhạt, Hoàng hậu đang nằm nghiêng, choàng cánh tay trái qua Hoàng nhi, vì đứng đằng sau nên không thể nhìn rõ mặt, Ngài thầm nghĩ: “Nếu ta đến gần e rằng Hoàng hậu sẽ thức giấc, làm trở ngại việc xuất gia của ta trong đêm nay. Bây giờ, ta chưa nhìn thấy mặt Hoàng nhi, thì chờ sau khi ta chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, ta sẽ trở về gặp sau cũng không muộn”.

Đức Bồ Tát nhẹ nhàng bước ra, lên ngựa Kandaka, còn Channa đi theo sau, vào lúc nửa đêm ngày rằm tháng sáu âm lịch, Ngài đã trốn khỏi hoàng cung đi xuất gia. Mỗi vó ngựa đều có bàn tay chư thiên nâng đỡ, không phát ra tiếng động, nên không một ai hay biết; khi đến cửa thành thì liền có chư thiên mở cửa cho ngựa Kandaka phi nhanh qua.

Đức Bồ Tát đi qua khỏi ba xứ: xứ Sakya, xứ Koliya và xứ Malla khoảng 30 do tuần chỉ trong một đêm. Đến bờ sông Anoma, Ngài ra hiệu cho ngựa Kandaka bay sang bờ bên kia, rồi Ngài nhẹ nhàng xuống ngựa bảo Channa rằng:

– Này Channa, ta sẽ xuất gia tại nơi đây, con hãy mang hết đồ trang phục nầy trở về hoàng cung tâu cho Phụ vương ta biết.

Đức Bồ Tát lấy thanh gươm bén cắt tóc, chừa lại khoảng 2 lóng tay. Tất cả những sợi tóc còn lại tự xoắn vòng xoáy theo khu ốc sang bên phải nằm sát trên da đầu và Ngài cạo sạch râu. Chỉ một lần ấy thôi, từ đó về sau suốt cả cuộc đời, Ngài không phải cắt tóc, cạo râu nữa.

Sau khi cắt tóc xong, Đức Bồ Tát cầm nắm tóc trên tay phát nguyện rằng:

– Nếu ta trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, thì xin cho nắm tóc này ở trên hư không, còn nếu ta không chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, thì nắm tóc này sẽ rơi xuống đất.

Đức Bồ Tát ném nắm tóc lên hư không. Thật phi thường thay! Nắm tóc bay bỗng lên trên hư không khoảng một do tuần rồi đứng yên một chỗ. Lúc ấy, Đức vua trời Sakka nhìn thấy bèn đem cái hôp bằng ngọc, cung kính đặt nắm tóc của Đức Bồ Tát vào hộp, đem về tôn thờ ở ngôi tháp Culamanī tại cung Tam Thập Tam Thiên.

Khi ấy, vị đại phạm thiên Ghaṭikāra, là bạn thân cũ từ tiền kiếp của Đức Bồ Tát trong thời kỳ Đức Phật Kassapa, biết Đức Bồ Tát hôm nay xuất gia, nên mang 8 thứ vật dụng của bậc Samôn là tam y, bình bát, dao cạo, kim chỉ, dây thắt lưng và đồ lọc nước đến dâng cúng Ngài.

Đức Bồ Tát mặc y vàng màu lõi mít, tượng trưng như lá cờ chiến thắng của bậc Thánh Arahán, trở thành bậc xuất gia, lúc Đức Bồ Tát được 29 tuổi.

3 – Đức Phật chuyển Pháp Luân

Đức Phật suy tư về pháp Siêu Tam Giới

Đức Thế Tôn suy xét về 9 pháp Siêu tam giới (Lokuttaradhamma) mà Ngài đã chứng đắc:

Tứ Thánh Đế là pháp vô cùng vi tế, vô cùng sâu sắc, khó chứng ngộ.

4 Thánh Đạo là pháp diệt đoạn tuyệt mọi tham ái, phiền não, ác pháp.

4 Thánh Quả là pháp làm vắng lặng mọi tham ái, mọi phiền não, ác pháp.

Niết Bàn là pháp giải thoát mọi cảnh khổ.

Đó là pháp mà chỉ có bậc thiện trí, xa lánh ngũ dục, tiến hành thiền tuệ để chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo – 4 Thánh Quả và Niết Bàn. Còn chúng sinh đang bị dính mắc trong ngũ dục, bị say mê trong ngũ dục, bị đắm chìm trong ngũ dục, làm tôi tớ của 108 loại tham ái và làm nô lệ 1.500 loại phiền não, thì khó mà chứng ngộ được chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo – 4 Thánh Quả và Niết Bàn.

Đức Phật nghĩ rằng: “Nếu Như Lai thuyết pháp mà chúng sinh không thấu hiểu chánh pháp, không chứng đắc chánh pháp cao thượng, thì chỉ làm cho Như Lai vất vả, mệt nhọc, hoài công vô ích mà thôi!”. Do vậy, lúc này Đức Phật chưa muốn thuyết pháp tế độ chúng sinh.

Theo thông lệ, để chư Phật Chánh Đẳng Giác thuyết pháp cần phải có đầy đủ 2 điều kiện:

– Chủ thể: Đức Phật có tâm đại bi (mahākarunā) muốn tế độ chúng sinh giải thoát khỏi mọi cảnh khổ, điều kiện này đã sẵn có nơi Ngài.

– Khách thể: Phải có Đại Phạm Thiên thỉnh cầu thuyết pháp tế độ chúng sinh, điều kiện này để làm cho phát sinh đức tin nơi Đức Phật.

Vì rằng, các Đạo sĩ, tu sĩ, Samôn, Bàlamôn, Vua chúa, dân chúng, kể cả chư thiên, phạm thiên, đều tôn kính Đại Phạm Thiên. Nay Đại Phạm Thiên tôn kính Đức Phật, thỉnh cầu Đức Phật thuyết pháp tế độ chúng sinh, thì ắt hẳn phần đông chúng sinh nhân loại, chư thiên, phạm thiên,… cũng tôn kính Ngài. Từ sự tôn kính ấy, mới có đức tin trong sạch nơi Đức Phật, Đức Pháp, Đức Tăng. Khi có đức tin nơi Tam Bảo, Đức Phật thuyết pháp thì tất cả chúng sinh, nhân loại, chư thiên, phạm thiên… mới lắng nghe chánh pháp và thực hành theo chánh pháp của Ngài.

Đại Phạm Thiên thỉnh Đức Phật thuyết pháp

Đại Phạm Thiên Sahampati biết Đức Phật đang còn do dự chưa muốn thuyết pháp tế độ chúng sinh, Ngài bèn tuyên bố cho toàn cõi phạm thiên, chư thiên khắp 10 ngàn thế giới hay biết rằng:

Nassati vata Bho loko!

Vinassati vata Bho loko!

Này chư vị, toàn thế giới chúng sinh sẽ hủy hoại!

Này chư vị, toàn thế giới chúng sinh sẽ tiêu diệt!

Bởi vì, Đức Phật đang do dự chưa muốn thuyết pháp tế độ chúng sinh. Cho nên, Đại Phạm Thiên Sahampati cùng chư thiên, phạm thiên khắp 10 ngàn thế giới hiện xuống, cung kính Đức Thế Tôn, đồng thành kính cung thỉnh:

Desetu Bhante Bhagavā dhammam

Desetu Sugato dhammam.

– Kính bạch Đức Thế Tôn,

Chúng con hết lòng thành kính, xin thỉnh Đức Thế Tôn mở tâm đại bi thuyết pháp tế độ chúng sinh.

Kính bạch Đức Thế Tôn, Đức Thiện Ngôn,

Chúng con hết lòng thành kính, xin thỉnh Ngài mở tâm đại bi thuyết pháp tế độ chúng sinh.

Có số chúng sinh nào phiền não nhẹ, có khả năng chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo – Thánh Quả và Niết Bàn. Nếu số chúng sinh ấy, không có được cơ hội lắng nghe chánh pháp của Đức Thế Tôn, thì sự thiệt hại sẽ lớn lao biết dường nào!

Nghe qua lời thỉnh cầu của Đại Phạm Thiên Sahampati, với tâm đại bi, Đức Thế Tôn quán xét bằng Phật nhãn (Buddhacakkhu) thấy rõ có số chúng sinh có phiền não nhẹ, có số chúng sinh có phiền não nặng, có số chúng sinh có 5 pháp chủ (tín pháp chủ, tấn pháp chủ, niệm pháp chủ, định pháp chủ, tuệ pháp chủ) đủ năng lực, có số chúng sinh có 5 pháp chủ ít năng lực, có số chúng sinh dễ dạy, có số chúng sinh khó dạy…

Ví như có 4 đóa hoa sen:

– Có đóa hoa sen vượt qua khỏi mặt nước, chỉ chờ tiếp xúc với ánh sáng mặt trời liền nở ngay ngày hôm đó.

– Có đóa hoa sen vươn lên, nằm ngang tầm mặt nước, sẽ chờ nở vào ngày hôm sau.

– Có đóa hoa sen còn ở dưới mặt nước, sẽ chờ thời gian 3 hoặc 4 hôm nữa mới nở được.

– Có đóa hoa sen còn non vừa mới tượng hình ở dưới nước sâu. Những mầm sen non ấy sẽ làm vật thực cho loài rùa, cá….

Bốn loại hoa sen này được so sánh như 4 hạng người ở trong đời:

– Ugghāṭitannuù: Hạng người có trí tuệ bậc thượng, bén nhạy. Khi được nghe tiền đề của chánh pháp, chưa cần khai triển, hay trong một bài kệ có 4 câu, chỉ được nghe 2 câu đầu, bậc ấy có thể chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo – Thánh Quả và Niết Bàn ngay tức khắc.

– Vipañcitannū: Hạng người có trí tuệ bậc trung. Khi được nghe tiền đề của chánh pháp và khai triển, hay được nghe một bài kệ đầy đủ 4 câu, bậc ấy có thể chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo – Thánh Quả và Niết Bàn.

– Neyya: Hạng người có trí tuệ bậc thường. Khi được nghe tiền đề của chánh pháp và khai triển xong, còn cần phải có thời gian thân cận gần gũi với bậc Thánh Nhân, bậc thiện trí hướng dẫn chỉ dạy thêm, bậc ấy mới có thể chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo – Thánh Quả và Niết Bàn, trong kiếp hiện tại này.

– Padaparama: Hạng người có trí tuệ kém. Dù được nghe nhiều, học nhiều đi nữa hoặc dù có thân cận với bậc thiện trí, họ cũng chưa có thể chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo – Thánh Quả ngay trong kiếp hiện tại này. Nhưng đây là một cơ hội tốt, một dịp may, để bồi bổ pháp hạnh ba-la-mật, để chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo – Thánh Quả và Niết Bàn trong kiếp vị lai.

Đức Phật quán xét tất cả chúng sinh bằng Phật nhãn thấy rõ có 4 hạng người như vậy; cho nên, sự thuyết pháp của Ngài sẽ đem lại lợi ích lớn lao cho 3 hạng người trước có thể chứng đắc Thánh Đạo, Thánh Quả và Niết Bàn ngay trong kiếp hiện tại, và cũng đem lại lợi ích cho hạng người thứ tư (padaparama) ở kiếp vị lai. Do đó, Đức Phật nhận lời thỉnh cầu của Đại Phạm Thiên Sahampati, Ngài sẽ thuyết pháp tế độ chúng sinh.

Đức Thế Tôn dạy rằng:

– Này Đại Phạm Thiên Sahampati, trước đây chưa có đủ điều kiện, nên Như Lai chưa chịu thuyết pháp tế độ chúng sinh.

Này Đại Phạm Thiên Sahampati, bây giờ, Như Lai nhận lời thỉnh cầu của các ngươi, Như Lai sẽ thuyết pháp tế độ cho những chúng sinh có duyên lành, để giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.

Vị Đại Phạm Thiên Sahampati cùng toàn thể chư phạm thiên, chư thiên vô cùng hoan hỷ, khi biết Đức Thế Tôn đã nhận lời thỉnh cầu của họ. Toàn thể chư phạm thiên, chư thiên thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, rồi xin phép trở về cõi trời.

Trong đời này, chỉ có Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác kiếp chót, và chư Bồ Tát Độc Giác kiếp chót là không cần lắng nghe chánh pháp từ một vị Thầy nào, mà tự mình có thể chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo – 4 Thánh Quả và Niết Bàn, diệt đoạn tuyệt tất cả mọi phiền não, mọi tham ái, mọi ác pháp, trở thành bậc Thánh Arahán cao thượng, bởi vì chư Bồ Tát này có nhiều năng lực pháp hạnh ba-la-mật.

Ngoài Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác và chư Bồ Tát Độc Giác kiếp chót ra, còn tất cả các Đức Bồ Tát Thanh Văn Giác bậc nào, cũng cần phải lắng nghe chánh pháp của Đức Phật Chánh Đẳng Giác, mới có thể chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế y theo Đức Phật, chứng đắc 4 Thánh Đạo – 4 Thánh Quả và Niết Bàn, diệt đoạn tuyệt mọi phiền não trầm luân, mọi tham ái, mọi ác pháp, trở thành bậc Thánh Thanh Văn đệ tử của Đức Phật, đó là bậc Thánh Nhập Lưu, bậc Thánh Nhất Lai, bậc Thánh Bất Lai và bậc Thánh Arahán tùy theo năng lực ba-la-mật của mỗi bậc Thánh Nhân.

Khi suy xét nên thuyết pháp tế độ cho ai đầu tiên, Đức Phật liền nghĩ đến vị Đạo sư Ālāra Kālāmagotta là bậc thiện trí có trí tuệ, nếu vị Đạo sư Ālāra Kālāmagotta được nghe chánh pháp, thì sẽ mau lẹ chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo – Thánh Quả và Niết Bàn.

Lúc ấy chư thiên đến hầu Đức Phật và bạch rằng:

– Kính bạch Đức Thế Tôn, Đạo sư Ālāra Kālāmagotta đã viên tịch được 7 ngày qua.

Đức Phật quán xét, thấy đúng: Vị Đạo sư Ālāra Kālāmagotta đã viên tịch, do năng lực đệ tam thiền vô sắc cho quả tái sinh lên cõi Vô sở hữu xứ thiên thuộc vô sắc giới.

Ngài nghĩ: “Thật là sự bất lợi lớn lao quá!” .

Tiếp đến, Đức Phật nghĩ đến vị Đạo sư Udaka Rāmaputta là bậc thiện trí có trí tuệ, nếu vị Đạo sư Udaka Rāmaputta được nghe chánh pháp, thì sẽ mau lẹ chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo – Thánh Quả và Niết Bàn.

Lúc ấy, chư thiên đến hầu Đức Phật và bạch rằng:

– Kính bạch Đức Thế Tôn, vị Đạo sư Udaka Rāmaputta vừa mới viên tịch chiều hôm qua.

Đức Phật quán xét, thấy đúng: Vị Đạo sư Udaka Rāmaputta đã viên tịch, do năng lực đệ tứ thiền vô sắc cho quả tái sinh lên cõi Phi tưởng phi phi tưởng xứ thiên thuộc vô sắc giới.

Đức Phật nghĩ rằng: “Thật là sự bất lợi lớn lao quá!”.

Tiếp đến, Đức Phật nghĩ đến nhóm 5 Tỳ khưu đã từng phụng sự, hộ độ cho Ngài trong thời gian còn là Bồ Tát hành khổ hạnh.

Đức Phật nghĩ: “Vậy, đầu tiên Như Lai nên thuyết pháp tế độ nhóm 5 Tỳ khưu này”.

Khi ấy, nhóm 5 Tỳ khưu đang ở tại khu rừng phóng sinh nai gọi là Isipatana, gần thành Bārāṇasī.

Vậy, từ khu rừng Uruvela, Đức Phật ngự đến kinh thành Bārāṇasī để thuyết pháp độ nhóm 5 Tỳ khưu: Ngài Kondanna trưởng nhóm, Ngài Vappa, Ngài Bhaddiya, Ngài Mahānāma và Ngài Assaji.

3.1 – Đức Phật thuyết kinh Chuyển Pháp Luân

Sau khi trở thành bậc Chánh Đẳng Giác tròn đúng hai tháng, Đấng Chiến Thắng ngự đến khu rừng phóng sinh nai gọi là Isipatana, nhằm vào ngày rằm tháng 6. Nhóm 5 Tỳ khưu nhìn thấy Đức Phật từ xa đi đến, họ nghĩ lầm rằng: “Samôn Gotama đã từ bỏ sự tinh tấn hành pháp khổ hạnh, trở lại đời sống sung túc”.

Vì nghĩ như vậy, nhóm 5 Tỳ khưu không còn đức tin và kính trọng Đức Phật như trước, họ đồng ý thỏa thuận với nhau rằng: “Chúng ta không đứng dậy đón rước, không tiếp nhận y và bát, không đảnh lễ, chỉ nên sắp đặt chỗ để cho Samôn Gotama ngồi mà thôi”. Nhưng khi Đức Phật đến gần, do oai lực và tâm đại bi của Ngài, nhóm 5 Tỳ khưu không còn nhớ lời giao ước, mà mỗi người đều tự động đứng dậy cung kính đón rước: Vị này nhận y bát, vị kia lấy nước rửa chân, vị thì sắp đặt trải chỗ ngồi cao quí, thỉnh Ngài đến ngự… Nhưng cách xưng hô của họ đối với Đức Phật vẫn bằng cách gọi: “Āvuso” (đạo hữu) không hợp lẽ đạo, thiếu cung kính đối với Đấng Thập Lực Tuệ.

Thấy vậy, Đức Phật dạy rằng:

– Này chư Tỳ khưu, các con không nên gọi Như Lai bằng tiếng “Āvuso”. Như Lai là Đức Phật Chánh Đẳng Giác, Như Lai sẽ thuyết giảng chánh pháp mà Như Lai đã chứng ngộ. Các con hãy lắng nghe rồi thực hành theo, các con cũng sẽ chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo – 4 Thánh Quả và Niết Bàn y theo Như Lai đã chứng ngộ”.

Nhóm 5 Tỳ khưu vẫn chưa tin theo lời dạy của Đức Phật, vì nghĩ rằng: “Trước đây Samôn Gotama hành pháp khổ hạnh đến như thế, mà không chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác; nay trở lại đời sống sung túc như vậy, lại có thể chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác được hay sao?”.

Đấng Thiện Thệ thấu hiểu rõ sự hoài nghi của nhóm 5 Tỳ khưu, nên Ngài đã giảng giải rõ ràng, phá tan được sự hoài nghi của họ. Cuối cùng, nhóm 5 Tỳ khưu cảm phục Đức Phật và phát sinh đức tin trong sạch nơi Ngài.

Khi ấy mặt trời sắp lặn ở hướng Tây, mặt trăng ló dạng ở hướng Đông, Đấng Chánh Đẳng Giác lần đầu tiên thuyết pháp với bài kinh Chuyển Pháp Luân – Dhammacakkappavattanasutta.

Nội dung bài kinh Chuyển Pháp Luân

Lần đầu tiên Đức Phật thuyết giảng bài kinh Chuyển Pháp Luân, để tế độ 5 nhóm Tỳ khưu là Ngài Koṇḍanna, Ngài Vappa, Ngài Bhaddiya, Ngài Mahānāma, Ngài Assaji.

Đức Phật dạy rằng:

– Bậc xuất gia không nên hành hai pháp cực đoan thuộc hai biên kiến.

Một là: Hưởng khoái lạc trong ngũ dục do tâm tham ái hợp với tà kiến, là pháp thấp hèn của hạng phàm nhân trong đời, không phải của bậc Thánh Nhân cao thượng, không đem lại sự lợi ích giải thoát khổ sinh.

Hai là: Tự ép xác, hành khổ mình do tâm sân và có đoạn kiến, thuộc pháp hành khổ hạnh của ngoại đạo, không phải của bậc Thánh Nhân cao thượng, không đem lại sự lợi ích giải thoát khổ sinh.

Không thiên về hai biên kiến ấy, Đức Phật đã hành theo pháp hành Trung Đạo (Majjhimappaṭipadā) đó chính là Thánh Đạo hợp đủ 8 chánh cao thượng là:

1 – Chánh kiến: Trí tuệ thiền tuệ chân chánh thấy rõ, biết rõ chân lý Tứ Thánh Đế

– Khổ Thánh Đế (Dukkha ariyasacca)

– Nhân sinh Khổ Thánh Đế (Tập Thánh Đế – Dukkhasamudaya ariyasacca).

– Diệt Khổ Thánh Đế (Diệt Thánh Đế – Dukkhanirodha ariyasacca)

– Pháp hành Diệt Khổ Thánh Đế (Đạo Thánh Đế – Dukkhanirodhagaminī paṭipadā ariyasacca)

Đó là 1 trong 8 chánh chứng đắc Thánh Đạo – Thánh Quả và Niết Bàn.

2 – Chánh tư duy: Tư duy chân chánh

– Tư duy thoát ra khỏi ngũ dục (xuất gia).

– Tư duy không làm khổ mình, khổ người (hợp với tâm từ).

– Tư duy không làm hại mình, hại người (hợp với tâm bi).

Đó là 1 trong 8 chánh chứng đắc Thánh Đạo – Thánh Quả và Niết Bàn.

3 – Chánh ngữ: Lời nói chân chánh

– Tránh xa lời nói dối.

– Tránh xa lời nói chia rẽ.

– Tránh xa lời nói thô tục.

– Tránh xa lời nói vô ích.

Đó là 1 trong 8 chánh chứng đắc Thánh Đạo – Thánh Quả và Niết Bàn.

4 – Chánh nghiệp: Hành nghề chân chánh

– Tránh xa sự sát sanh.

– Tránh xa sự trộm cắp.

– Tránh xa sự tà dâm.

Đó là 1 trong 8 chánh chứng đắc Thánh Đạo – Thánh Quả và Niết Bàn.

5 – Chánh mạng: Nuôi mạng chân chánh

– Tránh xa thân hành ác, khẩu nói ác liên quan đến việc nuôi mạng.

Đó là 1 trong 8 chánh chứng đắc Thánh Đạo – Thánh Quả và Niết Bàn.

6 – Chánh tinh tấn: Tinh tấn chân chánh

– Tinh tấn diệt ác pháp đã sinh.

– Tinh tấn ngăn không cho ác pháp phát sinh.

– Tinh tấn làm cho thiện pháp phát sinh.

– Tinh tấn làm tăng trưởng thiện pháp đã sinh.

Đó là 1 trong 8 chánh chứng đắc Thánh Đạo – Thánh Quả và Niết Bàn.

7 – Chánh niệm: Niệm chân chánh

– Niệm thân: Thân là đối tượng của chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác.

– Niệm thọ: Thọ là đối tượng của chánh niệm, tỉnh giác.

– Niệm tâm: Tâm là đối tượng của chánh niệm, tỉnh giác.

– Niệm pháp: Pháp là đối tượng của chánh niệm, tỉnh giác.

Đó là 1 trong 8 chánh chứng đắc Thánh Đạo – Thánh Quả và Niết Bàn.

8 – Chánh định: Định chân chánh

– Định trong đệ nhất thiền Siêu tam giới, có Niết Bàn là đối tượng.

– Định trong đệ nhị thiền Siêu tam giới, có Niết Bàn là đối tượng.

– Định trong đệ tam thiền Siêu tam giới, có Niết Bàn là đối tượng.

– Định trong đệ tứ thiền Siêu tam giới, có Niết Bàn là đối tượng.

– Định trong đệ ngũ thiền Siêu tam giới, có Niết Bàn là đối tượng.

Đó là 1 trong 8 chánh chứng đắc Thánh Đạo – Thánh Quả và Niết Bàn.

Pháp hành Trung Đạo đó là Thánh Đạo hợp đủ 8 chánh này chỉ đồng sinh với 4 Thánh Đạo Tâm và 4 Thánh Quả Tâm, chắc chắn có Niết Bàn là đối tượng.

Bằng những pháp hành Trung Đạo này, Đức Phật đã chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế theo Tam Tuệ Luân gồm:

– Tam Tuệ Luân trong Khổ Thánh Đế:

+ Trí Tuệ Học Biết Khổ Thánh Đế (Saccañāṇa):

Này chư Tỳ khưu! Tuệ nhãn (cakkhu) thấy rõ Khổ Thánh đế đã phát sinh, trí tuệ thiền tuệ (ñāṇa) thấy rõ thực tính Khổ Thánh đế đã phát sinh, trí tuệ sáng suốt (paññā) thấy rõ khổ sinh, khổ già… đã phát sinh, tuệ minh (vijjā) thấy rõ, thấu suốt hoàn toàn Khổ Thánh đế đã phát sinh, ánh sáng trí tuệ (āloka) diệt màn vô minh che ám Khổ Thánh đế đã phát sinh đến với Như Lai trong mọi pháp Khổ Thánh đế, mà trước đây, khi chưa thành Phật, Như Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng: “Thực tính tất cả các pháp, sắc pháp, danh pháp trong tam giới, ngoại trừ tâm tham ái ra (vì tham ái là Nhân sinh Khổ Thánh đế), đều LÀ Khổ Thánh đế”.

+ Trí Tuệ Hành Phận Sự Biết Khổ Thánh Đế (Kiccañāṇa)

Này chư Tỳ khưu! Tuệ nhãn (cakkhu) thấy rõ Khổ Thánh đế đã phát sinh, trí tuệ thiền tuệ (ñāṇa) thấy rõ thực tính Khổ Thánh đế đã phát sinh, trí tuệ sáng suốt (paññā) thấy rõ khổ sinh, khổ già… đã phát sinh, tuệ minh (vijjā) thấy rõ, thấu suốt hoàn toàn Khổ Thánh đế đã phát sinh, ánh sáng trí tuệ (āloka) diệt màn vô minh che ám Khổ Thánh đế đã phát sinh đến với Như Lai trong mọi pháp Khổ Thánh đế, mà trước đây, khi chưa thành Phật, Như Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng: “Thực tính các pháp (danh pháp, sắc pháp) Khổ Thánh đế ấy là PHÁP NÊN BIẾT rõ bằng trí tuệ thiền tuệ tam giới”.

+ Trí Tuệ Thành Hoàn Thành Xong Phận Sự Biết Khổ Thánh Đế (Katañāṇa)

Này chư Tỳ khưu! Tuệ nhãn (cakkhu) thấy rõ Khổ Thánh đế đã phát sinh, trí tuệ thiền tuệ (ñāṇa) thấy rõ thực tính Khổ Thánh đế đã phát sinh, trí tuệ sáng suốt (paññā) thấy rõ khổ sinh, khổ già… đã phát sinh, tuệ minh (vijjā) thấy rõ, thấu suốt hoàn toàn Khổ Thánh đế đã phát sinh, ánh sáng trí tuệ (āloka) diệt màn vô minh che ám Khổ Thánh đế đã phát sinh đến với Như Lai trong mọi pháp Khổ Thánh đế, mà trước đây, khi chưa thành Phật, Như Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng: “Thực tính tất cả các pháp (danh pháp, sắc pháp) Khổ Thánh đế ấy là PHÁP NÊN BIẾT THÌ ĐÃ BIẾT rõ bằng 4 Thánh đạo tuệ rồi”.

– Tam Tuệ Luân trong Nhân Sinh Khổ Thánh Đế:

+ Trí Tuệ Học Biết Nhân Sinh Khổ Thánh Đế (Saccañāṇa)

– Này chư Tỳ khưu! Tuệ nhãn thấy rõ tham ái là Nhân sinh Khổ Thánh đế đã phát sinh, trí tuệ thiền tuệ thấy rõ thực tính ba loại tham ái là Nhân sinh Khổ Thánh đế đã phát sinh, trí tuệ sáng suốt thấy rõ 108 loại tham ái là Nhân sinh Khổ Thánh đế đã phát sinh, tuệ minh thấy rõ, thấu suốt Nhân sinh Khổ Thánh đế đã phát sinh, ánh sáng trí tuệ diệt màn vô minh che án Nhân sinh Khổ Thánh đế đã phát sinh đến với Như Lai, trong mọi pháp Nhân sinh Khổ Thánh đế, mà từ trước khi chưa thành Phật, Như Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng: “Thực tính 3 loại tham ái ấy LÀ Nhân sinh Khổ Thánh đế”.

+ Trí Tuệ Hành Phận Sự Diệt Nhân Sinh Khổ Thánh Đế (Kiccañāṇa)

– Này chư Tỳ khưu! Tuệ nhãn thấy rõ tham ái là Nhân sinh Khổ Thánh đế đã phát sinh, trí tuệ thiền tuệ thấy rõ thực tính ba loại tham ái là Nhân sinh Khổ Thánh đế đã phát sinh, trí tuệ sáng suốt thấy rõ 108 loại tham ái là Nhân sinh Khổ Thánh đế đã phát sinh, tuệ minh thấy rõ, thấu suốt Nhân sinh Khổ Thánh đế đã phát sinh, ánh sáng trí tuệ diệt màn vô minh che án Nhân sinh Khổ Thánh đế đã phát sinh đến với Như Lai, trong mọi pháp Nhân sinh Khổ Thánh đế, mà từ trước khi chưa thành Phật, Như Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng: “Thực tính 3 loại tham ái là Nhân sinh Khổ Thánh-đế ấy là PHÁP NÊN DIỆT bằng trí tuệ thiền tuệ tam giới”.

+ Trí Tuệ Thành Hoàn Thành Phận Sự Diệt Nhân Sinh Khổ Thánh Đế (Katañāṇa)

– Này chư Tỳ khưu! Tuệ nhãn thấy rõ tham ái là Nhân sinh Khổ Thánh đế đã phát sinh, trí tuệ thiền tuệ thấy rõ thực tính ba loại tham ái là Nhân sinh Khổ Thánh đế đã phát sinh, trí tuệ sáng suốt thấy rõ 108 loại tham ái là Nhân sinh Khổ Thánh đế đã phát sinh, tuệ minh thấy rõ, thấu suốt Nhân sinh Khổ Thánh đế đã phát sinh, ánh sáng trí tuệ diệt màn vô minh che án Nhân sinh Khổ Thánh đế đã phát sinh đến với Như Lai, trong mọi pháp Nhân sinh Khổ Thánh đế, mà từ trước khi chưa thành Phật, Như Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng: “Thực tính 3 loại tham ái là Nhân sinh Khổ Thánh đế ấy là PHÁP NÊN DIỆT THÌ ĐÃ DIỆT ĐOẠN TUYỆT bằng 4 Thánh đạo tuệ rồi”.

– Tam Tuệ Luân trong Diệt Khổ Thánh Đế:

+ Trí Tuệ Học Biết Diệt Khổ Thánh Đế (Saccañāṇa)

Này chư Tỳ khưu! Tuệ nhãn thấy rõ Diệt Khổ Thánh đế đã phát sinh, trí tuệ thiền tuệ thấy rõ Diệt Khổ Thánh đế đã phát sinh, trí tuệ sáng suốt thấy rõ thực tính Niết bàn đã phát sinh, tuệ minh thấy rõ, thấu suốt Diệt Khổ Thánh đế đã phát sinh, ánh sáng trí tuệ diệt màn vô minh che án Diệt Khổ Thánh đế đã phát sinh đến với Như Lai, trong mọi pháp Diệt Khổ Thánh đế, mà từ trước khi chưa thành Phật, Như Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng: “Thực tính Niết bàn LÀ pháp Diệt Khổ Thánh đế.”

+ Trí Tuệ Hành Phận Sự Chứng Ngộ Diệt Khổ Thánh Đế (Kiccañāṇa)

Này chư Tỳ khưu! Tuệ nhãn thấy rõ Diệt Khổ Thánh đế đã phát sinh, trí tuệ thiền tuệ thấy rõ Diệt Khổ Thánh đế đã phát sinh, trí tuệ sáng suốt thấy rõ thực tính Niết bàn đã phát sinh, tuệ minh thấy rõ, thấu suốt Diệt Khổ Thánh đế đã phát sinh, ánh sáng trí tuệ diệt màn vô minh che án Diệt Khổ Thánh đế đã phát sinh đến với Như Lai, trong mọi pháp Diệt Khổ Thánh đế, mà từ trước khi chưa thành Phật, Như Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng: “Thực tính Niết bàn là Diệt Khổ Thánh đế ấy là PHÁP NÊN CHỨNG NGỘ bằng trí tuệ thiền tuệ tam giới”.

+Trí Tuệ Thành Hòan Thành Phận Sự Chứng Ngộ Diệt Khổ-Thánh Đế (Katañāṇa)

Này chư Tỳ khưu! Tuệ nhãn thấy rõ Diệt Khổ Thánh đế đã phát sinh, trí tuệ thiền tuệ thấy rõ Diệt Khổ Thánh đế đã phát sinh, trí tuệ sáng suốt thấy rõ thực tính Niết bàn đã phát sinh, tuệ minh thấy rõ, thấu suốt Diệt Khổ Thánh đế đã phát sinh, ánh sáng trí tuệ diệt màn vô minh che án Diệt Khổ Thánh đế đã phát sinh đến với Như Lai, trong mọi pháp Diệt Khổ Thánh đế, mà từ trước khi chưa thành Phật, Như Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng: “Thực tính Niết bàn là Diệt Khổ Thánh đế ấy là PHÁP NÊN CHỨNG NGỘ THÌ ĐÃ CHỨNG NGỘ Niết bàn bằng 4 Thánh đạo tuệ rồi”.

– Tam Tuệ Luân trong Pháp Hành Dẫn Đến Diệt Khổ Thánh Đế:

+ Trí Tuệ Học Biết Pháp Hành Dẫn Đến Diệt Khổ Thánh Đế (Saccañāṇa)

Này chư Tỳ khưu! Tuệ nhãn thấy rõ Pháp hành dẫn đến Diệt Khổ Thánh đế đã phát sinh, trí tuệ thiền tuệ thấy rõ Pháp hành dẫn đến Diệt Khổ Thánh đế đã phát sinh, trí tuệ sáng suốt thấy rõ thực tính của chánh kiến, chánh tư duy… đã phát sinh, tuệ minh thấy rõ, thấu suốt Pháp hành dẫn đến Diệt Khổ Thánh đế đã phát sinh, ánh sáng trí tuệ diệt màn vô minh che ám Pháp hành dẫn đến Diệt Khổ Thánh đế đã phát sinh đến với Như Lai, trong mọi Pháp hành dẫn đến Diệt Khổ Thánh đế mà từ trước khi chưa thành Phật, Như Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng: “Thực tính Thánh đạo hợp đủ 8 chánh LÀ pháp hành bát chánh đạo dẫn đến chứng ngộ Niết bàn, Diệt Khổ Thánh đế.”

+Trí Tuệ Hành Phận Sự Tiến Hành Pháp Hành Dẫn Đến Diệt Khổ Thánh Đế (Kiccañāṇa)

Này chư Tỳ khưu! Tuệ nhãn thấy rõ Pháp hành dẫn đến Diệt Khổ Thánh đế đã phát sinh, trí tuệ thiền tuệ thấy rõ Pháp hành dẫn đến Diệt Khổ Thánh đế đã phát sinh, trí tuệ sáng suốt thấy rõ thực tính của chánh kiến, chánh tư duy… đã phát sinh, tuệ minh thấy rõ, thấu suốt Pháp hành dẫn đến Diệt Khổ Thánh đế đã phát sinh, ánh sáng trí tuệ diệt màn vô minh che ám Pháp hành dẫn đến Diệt Khổ Thánh đế đã phát sinh đến với Như Lai, trong mọi Pháp hành dẫn đến Diệt Khổ Thánh đế mà từ trước khi chưa thành Phật, Như Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng: “Thực tính Thánh đạo hợp đủ 8 chánh LÀ PHÁP NÊN TIẾN HÀNH để chứng ngộ Niết bàn, Diệt Khổ Thánh đế bằng trí tuệ thiền tuệ tam giới”.

+ Trí Tuệ Thành Hoàn Thành Xong Phận Sự Tiến Hành Pháp Hành Dẫn Đến Pháp Hành Diệt Khổ Thánh Đế (Katañāṇa)

Này chư Tỳ khưu! Tuệ nhãn thấy rõ Pháp hành dẫn đến Diệt Khổ Thánh đế đã phát sinh, trí tuệ thiền tuệ thấy rõ Pháp hành dẫn đến Diệt Khổ Thánh đế đã phát sinh, trí tuệ sáng suốt thấy rõ thực tính của chánh kiến, chánh tư duy… đã phát sinh, tuệ minh thấy rõ, thấu suốt Pháp hành dẫn đến Diệt Khổ Thánh đế đã phát sinh, ánh sáng trí tuệ diệt màn vô minh che ám Pháp hành dẫn đến Diệt Khổ Thánh đế đã phát sinh đến với Như Lai, trong mọi Pháp hành dẫn đến Diệt Khổ Thánh đế mà từ trước khi chưa thành Phật, Như Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng: “Thực tính Thánh đạo hợp đủ 8 chánh LÀ PHÁP NÊN TIẾN HÀNH THÌ ĐÃ TIẾN HÀNH chứng ngộ Niết bàn, Diệt Khổ Thánh đế bằng 4 Thánh đạo tuệ rồi”.

Đức Phật truyền dạy rằng:

“ Này chư Tỳ khưu! Khi nào trí tuệ thiền tuệ thấy rõ biết rõ thực tính của Tứ Thánh đế theo tam tuệ luân (trí tuệ học, trí tuệ hành, trí tuệ thành), thành 12 loại trí tuệ hoàn toàn trong sáng, thanh tịnh đã phát sinh đến với Như Lai.

– Này chư Tỳ khưu! Khi ấy, Như Lai dõng dạc khẳng định truyền dạy rằng: Như Lai đã chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác vô thượng trong toàn thế giới chúng sinh, nhân loại, Vua chúa, Samôn, Bàlamôn, chư thiên, Ma vương và phạm thiên cả thảy”.

Ngài Koṇḍanna chứng đắc bậc Thánh Nhập Lưu.

Đức Thế Tôn thuyết giảng bài kinh Chuyển Pháp Luân này xong, nhóm 5 Tỳ khưu vô cùng hoan hỷ thực hành theo lời giáo huấn của Ngài. Trong nhóm 5 Tỳ khưu ấy, Ngài Koṇḍanna đã phát sinh Pháp Nhãn chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Nhập Lưu Thánh Đạo, Nhập Lưu Thánh Quả và Niết Bàn, trở thành bậc Thánh Nhập Lưu đầu tiên trong giáo pháp của Đức Phật Gotama.

Khi ấy, Ngài Koṇḍanna xin Đức Phật cho phép thọ Tỳ khưu; Đức Phật đã cho phép Ngài Koṇḍanna thọ Tỳ khưu theo cách Ehi bhikkhūpasampadā. Thọ Tỳ khưu bằng cách Đức Phật gọi Ehi bhikkhu như sau:

“Ehi bhikkhū!” ti Bhavagā avoca. Svākkhāto dhammo cara brahmacariyaṃ sammā dukkhassa antakiriyāya…”.

Đức Thế Tôn truyền dạy rằng:

“Con hãy lại đây! Con trở thành Tỳ khưu theo ý nguyện. Chánh pháp mà Như Lai đã thuyết giảng hoàn hảo phần đầu, phần giữa, phần cuối. Con hãy nên cố gắng tinh tấn hành phạm hạnh cao thượng, để chứng đắc Arahán Thánh Đạo – Arahán Thánh Quả và Niết Bàn, để chấm dứt khổ tử sinh luân hồi”.

Tam Bảo trọn vẹn xuất hiện trên thế gian

Ngay khi Đức Phật truyền dạy vừa dứt câu, Ngài Koṇḍanna liền trở thành vị Tỳ khưu có đầy đủ 8 thứ vật dụng của Tỳ khưu, phát sinh do phước thiện, cũng đồng thời Tam Bảo: Phật Bảo, Pháp Bảo, Tăng Bảo hoàn toàn đầy đủ trọn vẹn trên thế gian này, vào đúng ngày rằm tháng 6 (âm lịch). Bốn vị Tỳ khưu còn lại cũng sẽ chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Nhập Lưu Thánh Đạo, Nhập Lưu Thánh Quả và Niết Bàn trở thành bậc Thánh Nhập Lưu theo tuần tự thời gian như sau:

Ngày 16 tháng 6, Ngài Vappa chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Nhập Lưu Thánh Đạo, Nhập Lưu Thánh Quả và Niết Bàn trở thành bậc Thánh Nhập lưu và được phép thọ Tỳ khưu bằng cách Ehi bhikkhu.

Ngày 17 tháng 6, Ngài Bhaddiya chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu và được Đức Phật cho phép thọ Tỳ khưu bằng cách Ehi bhikkhu.

Ngày 18 tháng 6, Ngài Mahānāma chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu và được Đức Phật cho phép thọ Tỳ khưu bằng cách Ehi bhikkhu.

Ngày 19 tháng 6, Ngài Assaji chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu và được Đức Phật cho phép thọ Tỳ khưu bằng cách Ehi bhikkhu.

Trong Phật giáo có 4 loại bậc Thánh Nhân:

Bậc Thánh Nhập Lưu.

Bậc Thánh Nhất Lai.

Bậc Thánh Bất Lai.

Bậc Thánh Arahán.

Nhóm 5 Tỳ khưu đã chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu, chỉ mới là bậc Thánh thứ nhất trong Phật giáo. Bậc Thánh Nhập Lưu có khả năng diệt đoạn tuyệt được hai loại phiền não là tà kiến và hoài nghi. Bậc Thánh Nhập Lưu chưa có khả năng diệt đoạn tuyệt 8 loại phiền não còn lại và các tham ái, các ác pháp, nên chưa có thể giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong tam giới được. Cho nên, Đức Phật giảng bài Kinh Anattalakkhaṇasutta: Kinh Vô Ngã Tướng để tế độ nhóm 5 Tỳ khưu tiếp tục chứng đắc thành bậc Thánh Arahán là bậc Thánh Nhân thứ tư cao thượng trong Phật giáo.

3.5 – Kinh Anattalakkhaṇasutta

Theo tuần tự thời gian đến ngày 20 tháng 6 (âm lịch), Đức Phật thuyết giảng bài kinh Anattalakkhaṇasutta: “Kinh Vô Ngã Tướng”, để tế độ nhóm 5 Tỳ khưu trở thành bậc Thánh Arahán.

Nội dung bài kinh, Đức Phật thuyết giảng về ngũ uẩn: Sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn đều là pháp vô ngã, không phải ta, không phải của ta.

Mỗi uẩn đều có sự sinh, sự diệt, nên có trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã.

Mỗi uẩn có 11 tính chất: quá khứ hoặc vị lai, hoặc hiện tại; bên trong hoặc bên ngoài; thô hoặc vi tế; thấp hèn hoặc cao quý; gần hoặc xa thực tánh của tất cả mỗi uẩn ấy không phải của ta, không phải là ta, không phải tự ngã của ta.

Nhóm 5 Tỳ khưu có trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ ngũ uẩn đúng theo thực tánh của ngũ uẩn như vậy, dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Nhất Lai Thánh Đạo – Nhất Lai Thánh Quả và Niết Bàn lần thứ nhì, tiếp tục chứng đắc Bất Lai Thánh Đạo – Bất Lai Thánh Quả và Niết Bàn lần thứ ba, cuối cùng là chứng đắc Arahán Thánh Đạo – Arahán Thánh Quả và Niết Bàn lần thứ tư, diệt đoạn tuyệt mọi phiền não, mọi tham ái, mọi ác pháp không còn dư sót lại, trở thành bậc Thánh Arahán; trí tuệ quán xét thấy rõ, biết rõ Arahán Thánh Đạo – Arahán Thánh Quả đã chứng đắc, Niết Bàn đã chứng ngộ, mọi phiền não, mọi tham ái, mọi ác pháp đã diệt đoạn tuyệt không còn dư sót. Các Ngài có trí tuệ thấy rõ, biết rõ mọi phận sự Tứ Thánh Đế đã hoàn thành; phạm hạnh cao thượng đã hành xong, kiếp này là kiếp chót, không còn tái sinh kiếp nào khác nữa.

Nhóm 5 Tỳ khưu trở thành bậc Thánh Arahán vào ngày 20 tháng 6 là những ngày đầu hạ thứ nhất của Đức Phật.

Như vậy, ngoài Đức Phật ra, còn có thêm 5 vị Thánh Arahán xuất hiện trên thế gian.

4 – Ðức Phật thị hiện song thông nhiếp phục ngoại đạo

Dùng thần thông để nhiếp phục ngoại đạo là một trong ba mươi tục lệ của chư Phật. Ðã là tục lệ thì vị Phật Chánh Giác nào cũng phải thực thi đúng như vậy. Tục lệ ở đây có nghĩa là những điều chư Phật trong quá khứ, hiện tại và tương lai đều thể hiện một cách đồng nhất mà không có ai quy định cả.

Cho nên câu chuyện đức Phật Gotamanhiếp phục ngoại đạo bằng thần thông là một chuyện bình thường vì đây chỉ là một việc làm kế thừa truyền thống của chư Phật. Trong thời đức Phật có tổng cộng sáu nhóm ngoại đạo. Những vị này đều có tuổi đời rất thâm niên và tín đồ vô cùng đông đảo. Tên của các vị này là:

– Purānakassapa

– Makkhaligosana

– Ajitakesakambala

– Sanjayavelatthaputta

– Pakuddhakaccayana

– Niganthanātaputta

Từ khi đức Phật Gotama thành đạo dưới cội Bồ đề và Ngài thuyết pháp hóa đạo, có rất nhiều người hữu duyên tìm đến với Ngài. Pháp của Ngài giảng có hệ thống, tâm lý, triết học, hoàn hảo đoạn đầu, đoạn giữa và đoạn cuối, chúng sinh nào có duyên chắc chắn giác ngộ ngay trong kiếp hiện tiền. Do đó nhiều đệ tử của đức Phật Gotama xuất gia, đắc đạo mặc dù họ đã có nhiều năm tu hành theo sáu vị lãnh đạo tinh thần trên. Các vị lãnh đạo đó nhìn thấy đệ tử của mình mỗi ngày mỗi ít, đa số đã từ giã mình đi theo thọ giới với Sa môn Gotama. Không nói được, nhưng càng nhìn đệ tử từ giã ra đi lại càng thêm căm phẩn Đức Thế Tôn. Thế nên hình ảnh Đức Phật và đệ tử của Ngài là một sự căm thù đối với nhóm lục sư ngoại đạo trên. Mọi sinh hoạt của Ngài đều bị họ theo dõi để tìm khuyết điểm xuyên tạc, nhục mạ, hạ uy tín… nhưng tất cả đều như gió thoảng mây bay.

Sở dĩ có chuyện Đức Phật dùng thần thông chiến thắng ngoại đạo là vì Ðại đức Pindolabhāradvāja vâng lời ngài Moggallāna đi thu bát trầm trên hư không của một vị trưởng giả. Lần nọ, có một ông trưởng giả tìm được một khối trầm, cho tạc thành một bình bát và ông ta treo giải thưởng nếu ai lấy được bát ông sẽ trọng thưởng và cả gia đình theo nương nhờ làm học trò. Nhóm lục sư ngoại đạo nghe vậy cho người môi giới đến xin nhưng ông từ chối. Họ nói với ông trưởng giả chẳng lẽ vì một cái bát mà phải dùng thần thông thì không xứng đáng. Họ tìm nhiều mưu mô để đoạt được bát trầm nhưng không được. Ông trưởng giả nghĩ rằng trong nước mình đang ở có nhiều tôn giáo họ tự xưng là bậc Arahán cho nên ông treo giải thưởng như vậy người nào lấy được mới quả là Thánh Arahán. Nhưng bảy ngày trôi qua nhóm lục sư ngoại đạo không người nào thi hành theo tâm nguyện của ông trưởng giả.

Thế là một buổi sáng tinh sương, ngài Moggallāna và ngài Pindo vào thành khất thực nghe dân chúng đồn xôn xao về bình bát trầm của ông trưởng giả, nên ngài Moggallāna bảo Ðại đức Pindo hãy đi thu bát. Ông trưởng giả và dân chúng nhìn thấy tận mắt Ðại đức Pindo lấy bát, ông liền phát tâm trong sạch và hoan hỷ cúng dường tứ sự. Từ chuyện lấy bát của Ðại đức Pindo, dân chúng kính trọng và sùng ái đệ tử Sa môn Gotama, và họ rủ nhau đến chùa đông đảo để tìm xem thi triển thần thông. Ðức Phật hay biết chuyện này nên Ngài gọi Ðại đức Pindo vào và cấm từ nay về sau, Ðại đức và chư Tăng không được tự tiện dùng thần thông trước quần chúng.

Khi đức Phật cấm chế điều luật đó, nhóm lục sư ngoại đạo hay biết được và cho người đi tuyên truyền rằng: đệ tử của Sa môn Gotama còn vì danh lợi nên mới đi lấy bát còn chúng tôi là Arahán không vì danh lợi nên không lấy bát theo lời yêu cầu của trưởng giả. Sa môn Gotama còn đập bát và cấm chế điều luật, không cho đệ tử sử dụng thần thông. Do đó họ quyết định thi thố thần thông với Sa môn Gotama.

Vua Ajātasattu hay tin ngoại đạo nói như vậy, vội vã vào yết kiến Đức Thế Tôn và bạch rõ vấn đề những vị lãnh đạo tôn giáo đó muốn thách thức so tài thần lực với Thế tôn. Ðức Thế tôn trầm lặng trong giây lát, Ngài nói với nhà vua rằng Như Lai đồng ý so tài thần thông với họ.

Vua nói: – Bạch Thế tôn, còn việc ngài cấm sử dụng thần thông thì sao?

– Thưa Ðại vương, Như Lai cấm đệ tử chứ Như Lai đâu có cấm Như Lai!

Thế là đức Phật báo rõ địa điểm và thời gian để so tài thần thông với nhóm Lục sư ngoại đạo. Ngày đó là Rằm tháng Sáu tại Savatthī.

Khi ngoại đạo hay tin đức Phật đồng ý so tài thần thông với họ, nên họ rất sợ và hoang mang. Vì họ nghĩ rằng, Ngài cấm chế không cho đệ tử sử dụng thần thông thì chắc Ngài cũng không được phép sử dụng, ai ngờ bây giờ Ngài đồng ý đấu thần thông với bọn họ thì tính sao đây? Nhưng dù sao thì đã lỡ công bố rồi! Nhóm Lục sư ngoại đạo cùng nhau kéo về Savatthī và họ kêu gọi tín đồ hùn tiền để xây tháp đài để so tài thần lực với Sa môn Gotama, nên họ thu được một số tiền rất lớn. Vua Pasenadi hay biết tín đồ của nhóm lục sư ngoại lo lắng cho thầy như vậy nên cũng nao nao trong lòng. Hôm sau vua vào lễ đức Phật và xin Ngài chấp thuận cho xây một tháp đài giống như ngoại đạo để đức Thế tôn so tài với họ. Ðức Phật khước từ và Ngài bảo sẽ hiện thần thông dưới gốc cây xoài.

Ngoại đạo biết được cuộc nói chuyện giữa đức Phật và vua Pasenadi, nên họ cho đệ tử chặt hết những cây xoài trong thành Savatthī. Ðã đến ngày giờ so tài với ngoại đạo, đức Phật ngự vào thành nhưng chưa đến thành thì có một người giữ vườn Thượng Uyển thấy xoài chín hái dâng lên đức Phật. Ngài chấp thuận vật thí và nói đại đức Ānanda tước vỏ xoài rồi thọ nhận, sau khi đức Thế Tôn dùng xong, còn hạt xoài thì Ngài bảo người giữ vườn đào lỗ trồng và Ngài tưới nước rửa tay lên đó. Chẳng bao lâu hạt xoài mọc lên một cây xoài xanh tươi nhiều hoa lá và có nhiều trái thơm ngon.

Dân chúng đến tham dự cuộc so tài của đức Phật và ngoại đạo, họ thấy xoài có nhiều trái chín nên họ hái cùng nhau ăn. Họ ăn xoài thấy hương vị ngon lạ lùng, càng ngon họ càng nguyền rủa bọn ngoại đạo vô cớ chặt hết những cây xoài trong thành Sāvatthī, nên họ thấy bọn ngoại đạo ở đâu họ dùng hạt xoài ném vào bọn ngoại đạo.

Sắp đến giờ so tài, bọn ngoại đạo khủng hoảng tinh thần trước đại chúng. Liền sau đó đức Phật hóa một con đường bằng ngọc báu, rồi Ngài đi thiền hành trên con đường đó. Tiếp theo, Ngài hóa thân, từ một thân thành nhiều thân, lúc đó đại chúng thấy nhiều đức Phật trong tư thế khác nhau, có vị Phật ngồi, nằm hoặc hai vị thuyết pháp với nhau… Cuối cùng, Ngài hiện song thông (Yamakāpātihāriya), với năng lực này chỉ có đức Phật Chánh Đẳng Giác mới có thể thực hiện được. Thần thông này cùng một lúc hiện ra hai điều kỳ diệu: từ thân vừa phún tia nước, vừa phún tia lửa; từ thân phát hào quang xanh và đỏ… Trước uy lực của một vị Phật như vậy, bọn ngoại đạo kiếp sợ và rút lui chạy tán loạn chỉ còn lại dân chúng đang hướng về đức Phật thành kính lễ bái. Sau đó Ngài thuyết một bài pháp đúng vào tâm lý của từng chúng sinh, nên hôm đó chư Thiên và tứ chúng đắc đạo chứng quả nhiều vô số kể.

Ngay lúc đó, đức Phật chiêm nghiệm bằng tuệ giải thoát, Ngài thấy chư Phật trong quá khứ sau khi dùng thần thông thắng ngoại đạo thì sẽ lên cõi Trời Ðao Lợi thuyết pháp độ Phật mẫu bằng tạng Vi Diệu Pháp (Abhidhamma). Hôm ấy đúng vào ngày Rằm tháng Sáu.

Từ việc đức Phật so tài với ngoại đạo giúp chúng ta có thêm những ý niệm về lời dạy của đức Phật như sau:

– Việc đức Phật thị hiện song thông để chiến thắng ngoại đạo không phải chỉ riêng Ðức Phật Gotama, mà các vị Phật Chánh Giác đều giống nhau. Lý do thì không thấy kinh điển chú giải thêm nhưng điều đó có thể là để khẳng định trước Tứ chúng sự uy nghiêm và oai phong của một vị Phật Chánh Giác.

– Có thêm một luận cứ trong kinh tạng Nguyên thủy cho rằng đức Phật nhập hạ thứ bảy trên cõi Trời và Ngài giảng Tạng Diệu Pháp (Abhidhamma) độ Phật mẫu. Căn cứ vào những điểm lịch sử trên, chúng ta không thể nào lãng quên ngày trăng tròn tháng sáu âm lịch của Phật giáo.

Phật giáo Theravāda thường có truyền thống, hằng năm cứ vào ngày này đều tổ chức một đêm đầu đà, để chư Tăng và Phật tử ôn lại ý nghĩa của những điểm lịch sử trên, hầu cúng dường đến đức Phật để gieo duyên lành giải thoát trong vị lai.

Mùa an cư kiết hạ PL2559

Tuệ Ân tổng hợp

Đăng nhận xét