Hoàng tử Rāhula hạ sinh nhằm ngày rằm tháng 6, ngay đêm Ðức Bồ Tát Siddhattha trốn đi xuất gia năm 29 tuổi. Ðức Bồ Tát nghe tin báo hoàng hậu Yasodhara vừa mới hạ sinh Hoàng tử, tình thương con phát sanh, trước khi xuất gia, Ngài muốn nhìn thấy mặt Hoàng tử. Ðức Bồ Tát lén đứng ở cửa nhìn vào, hoàng hậu Yasodhara đang mằn nghiêng ngủ ngon giấc, tay choàng ngang qua đầu Hoàng tử, nên Ngài không nhìn thấy rõ mặt hoàng nhi, Ngài nghĩ: “Nếu ta bước vào dỡ cánh tay, Hoàng hậu sẽ tỉnh giấc, có thể làm trở ngại sự xuất gia của ta. Không sao! Bây giờ ta chưa thấy rõ mặt hoàng nhi, sau khi ta đã chứng đắc thành Bậc Chánh Ðẳng Giác rồi, ta sẽ trở về nhìn thấy hoàng nhi sau vậy!”.
Ðức Bồ Tát lặng lẽ lui ra, lên ngựa Kaṇṇaka cùng với Channa, nô bộc thân tín, trốn ra khỏi thành xuất gia mà không một ai hay biết cả.
Ðến năm 35 tuổi Ðức Bồ Tát chứng đắc thành Bậc Chánh Ðẳng Giác, thuyết pháp tế độ chúng sinh. Ðức vua Suddhodana hay tin thái tử Siddhattha đã trở thành Ðức Phật, Ðức vua truyền cho các quan cận thần đi thỉnh Ðức Phật ngự trở về kinh thành Kapilavatthu để Ðức vua được chiêm ngưỡng. Mãi đến một năm sau Ðức Phật mới ngự về đến kinh thành Kapilavatthu, vào ngày 16 tháng 4, sau khi đã thành Phật được 1 năm lẻ 1 ngày, gần 7 năm xa cách kể từ khi rời bỏ kinh thành Kapilavatthu, Ðức Thế Tôn cùng Tăng đoàn 20.000 chư Thánh A-ra-hán ngự về kinh thành Kapilavatthu.
Ðức vua Suddhodana, hoàng tộc cùng toàn thể dân chúng đón rước Ðức Phật cùng chư Thánh Tăng rất trọng thể. Ðức Phật dẫn đầu Tăng đoàn 20.000 chư Thánh A-ra-hán ngự đến vườn Nigrodhā. Tại đây Ðức Phật đã hóa thần thông yamaka pāṭihāriya: thần thông lửa và nước song song phát xuất từ kim thân của Ngài, và một con đường bằng thất bảo trên hư không, rồi Ngài ngự đi kinh hành trên con đường ấy. Ðức vua Suddhodana vô cùng kính phục, cúi đầu đảnh lễ Ðức Phật, làm cho toàn thể hoàng tộc bất kỳ lớn nhỏ cũng đều cúi đầu đảnh lễ theo. Ðức Phật bèn thuyết pháp tế độ đức phụ vương cùng dòng họ Sakya. Tất cả đều hoan hỉ lời dạy của Ngài, nhưng chỉ đảnh lễ ra về, mà không có lời thỉnh mời Ðức Phật và chư Thánh Tăng độ ngọ vào ngày mai.
Sáng ngày hôm sau, Ðức Phật dẫn đầu Tăng đoàn 20.000 bậc Thánh A-ra-hán mặc y mang bát vào kinh thành Kapilavatthu đi bát theo từng nhà. Ðức vua Suddhodana hay tin, vội vàng đến hầu Ðức Phật bạch rằng:
– Kính bạch Ðức Thế Tôn, con cảm thấy vô cùng xấu hổ khi nhìn cảnh Ðức Thế Tôn cùng 20.000 Thánh Tăng ôm bát đi khất thực từng nhà như thế này! Con là vua một nước, không lo đủ vật thực dâng cúng đến Ðức Thế Tôn cùng chư Thánh Tăng được sao!
Ðức Thế Tôn truyền dạy rằng:
– Thưa phụ vương, sự đi khất thực từng nhà, đó là truyền thống dòng dõi của Như Lai.
– Kính bạch Ðức Thế Tôn, dòng dõi của chúng ta là vua chúa cao quý, truyền thống từ đời vua này sang đời vua khác, chưa bao giờ có việc đi khất thực từng nhà.
– Thưa phụ vương, dòng dõi vua chúa là dòng dõi của phụ vương. Còn Như Lai thuộc dòng dõi theo truyền thống của chư Phật, từ Ðức Phật Dīpaṅkāra, Ðức Phật Koṇṇaññā, Ðức Phật Maṅgala… cho đến Ðức Phật Kassapa hay vô số chư Phật trong quá khứ, đều theo truyền thống đi khất thực từng nhà để nuôi mạng.
Ðức Phật thuyết pháp tế độ Ðức vua chứng ngộ Tứ thánh đế, chứng đắc Nhập Lưu Thánh Ðạo, Nhập Lưu Thánh Quả trở thành bậc Thánh Nhập Lưu. Lúc đó, Ðức vua Suddhodana đưa 2 tay nhận bình bát của Ðức Phật, và thỉnh Ðức Phật cùng 20.000 chư Thánh A-ra-hán ngự đến cung điện Ðức vua. Tại cung đình, Ðức Phật thuyết pháp tế độ Ðức vua chứng đắc Nhất Lai Thánh Ðạo, Nhất Lai Thánh Quả trở thành bậc Thánh Nhất Lai. Và dì mẫu Mahāpajāpatigotamī chứng đắc Nhập Lưu Thánh Ðạo, Nhập Lưu Thánh Quả trở thành bậc Thánh Nhập Lưu. Ðức vua Suddhodana cúng dường vật thực ngon lành đến Ðức Phật cùng chư Thánh A-ra-hán. Ðức vua kính thỉnh Ðức Phật cùng chư Thánh A-ra-hán mỗi ngày đến cung điện để cúng dường vật thực.
Ðến ngày thứ ba, Ðức Phật cùng chư Thánh A-ra-hán đến cung điện đức vua Suddhodana. Hôm ấy, nhằm ngày cử hành lễ đăng quang lên ngôi báu và hôn lễ Hoàng tử Nanda (là hoàng đệ cùng cha khác mẹ với Ðức Phật) cùng công chúa Janapadakalyāṇī. Sau khi thọ thực xong, Ðức Thế Tôn trao bát cho hoàng tử Nanda đi theo Ngài về chùa Nigrodhā. Hoàng tử Nanda đi theo nhưng vẫn còn nghe văng vẳng tiếng công chúa Janapadakalyāṇī căn dặn “Hoàng huynh hãy mau trở về”.
Khi đến chùa Nigrodhā Ðức Phật truyền dạy rằng:
– Này Nanda, con muốn thọ Tỳ khưu hay không?
Hoàng tử Nanda vì quá kính trọng Ðức Phật, nên không dám từ chối, bèn bạch với Ðức Phật rằng:
– Kính bạch Ðức Thế Tôn, dạ vâng, con muốn thọ Tỳ khưu.
Ðức Thế Tôn truyền dạy chư Tỳ khưu Tăng làm lễ thọ Tỳ khưu cho hoàng tử Nanda. Hoàng tử Nanda đã thọ Tỳ khưu theo lời cho phép của Ðức Phật.
HOÀNG TỬ RĀHULA THỌ SADI
Ðức Thế Tôn ngự tại chùa Nigrodhā gần kinh thành Kapilavatthu đã đến ngày thứ bảy, buổi sáng Ðức Phật cùng chư Thánh A-ra-hán ngự đến cung điện của đức phụ vương để độ ngọ.
Ðang lúc Ðức Phật ngự tại cung điện, khi ấy, hoàng hậu Yasodhara gọi hoàng tử Rāhula mới lên 7 tuổi mà dạy rằng:
– Eso te Rāhula pitā, gacchassu dāyajjaṃ yācāhi.
“Này Rāhula con yêu quý, Ðức Phật cao thượng đang ngự kia, chính là phụ vương của con. Con hãy đến xin thừa hưởng 4 kho báu đã biến mất từ khi phụ vương của con xuất gia”.
Hoàng tử Rāhula đến hầu gần Ðức Phật, nhận thấy có cảm giác lạ thường bèn quỳ xuống bạch rằng:
– Sukho vata samaṇa chāyā.
“Bạch Ðại Sa môn phụ vương. Ôi! Sự an lạc mát mẻ huyền diệu, trong bóng mát đại từ bi của Ngài”.
Khi Ðức Phật độ ngọ xong bèn trở về chùa, hoàng tử Rāhula theo sát bên Ngài xin được thừa hưởng của báu rằng:
– Dāyajjaṃ me samaṇa dehi!
Dāyajjaṃ me samaṇa dehi!
“Ðại Sa môn phụ vương, truyền lại cho con thừa hưởng kho của báu.
Ðại Sa môn phụ vương, truyền lại cho con thừa hưởng kho của báu”.
Thay vì truyền của báu thế gian, Ðức Thế Tôn truyền của báu siêu tam giới cho hoàng tử Rāhula. Vì thế Ngài truyền dạy Ðại Ðức Sāriputta cho hoàng tử Rāhula thọ Sadi.
Dựa theo nguyên nhân đầu tiên này, nên Ðức Phật cho phép rằng:
– Anujānāmi bhikkhave tīhi saraṇagamanehi sāmaṇerapabbajjaṃ, “evañca pana bhikkhave pabbajetabbo….
“Này chư Tỳ khưu, Như Lai cho phép thọ Sadi bằng cách truyền, thọ Tam quy.
Này chư Tỳ khưu, như vậy gọi là thọ Sadi…”.
Hoàng tử Rāhula thọ Sadi có:
– Ðại Ðức Sāriputta là đức Thầy Tế độ (ācariyupajjhāya).
– Ðại Ðức Moggallāna là đức Thầy lo lễ thọ Sa di cạo tóc, dạy mặc y cà sa, truyền Tam quy, dạy Sadi giới (pabbajjācariya).
– Ðại Ðức Mahākassapa là Ðức Thầy giảng dạy các pháp (ovādācariya).
Hoàng tử Rāhula là vị thọ Sadi đầu tiên trong giáo pháp của Ðức Phật Gotama, tại chùa Nigrodhā gần kinh thành Kapilavatthu, vào thời điểm một năm lẻ 8 ngày sau khi Ngài đã chứng đắc thành Bậc Chánh Ðẳng Giác.
ĐỨC VUA SUDDHODANA XIN ĐẶC ÂN
Ðức vua Suddhodana cảm thấy vô cùng khổ tâm khi nghe tin hoàng tôn Rāhula xuất gia thọ Sa di. Ðức vua nhớ lại khi thái tử Siddhattha bỏ cung điện trốn đi xuất gia, làm cho Ông thất vọng khổ tâm. Song, Ông nghĩ còn hoàng tử Nanda và hoàng tôn Rāhula là nguồn an ủi của Ông.
Lần này, Ðức vua thỉnh Ðức Phật về thăm quê hương. Ðức Phật cho phép hoàng tử Nanda xuất gia thọ Tỳ khưu, cũng làm cho Ông thất vọng khổ tâm, nhưng không dám nói nên lời, vì Ông hy vọng còn người cháu đích tôn Rāhula sẽ kế ngôi vua sau này. Nay, Ðức Thế Tôn lại cho phép hoàng tôn Rāhula xuất gia thọ Sadi, nỗi thất vọng khổ tâm của Ðức vua không sao chịu đựng được nữa, nên Ông bèn đến hầu Ðức Thế Tôn bạch rằng:
– Kính bạch Ðức Thế Tôn, khi Ngài trốn đi xuất gia, đã làm cho con khổ tâm vô cùng. Rồi Ngài lại cho hoàng tử Nanda xuất gia thọ Tỳ khưu cũng làm cho con khổ tâm không kém. Nay Ngài lại cho hoàng tôn Rāhula xuất gia thọ Sadi, nỗi thất vọng khổ tâm làm cho con không sao chịu đựng được nữa.
Kính bạch Ðức Thế Tôn, tình thương con như cắt da, cắt thịt, cắt gân, cắt đến xương, tủy.
Kính bạch Ðức Thế Tôn, con xin Ngài ban cho một đặc ân: “Con xin Ngài chế định cho chư Ðại Ðức không nên cho phép làm lễ xuất gia cho người con nào mà chưa được cha mẹ cho phép”.
Ðức Thế Tôn chấp thuận, rồi khuyên giải cho Ðức vua hiểu rõ sự lợi ích cao thượng của sự xuất gia thọ Sa di, thọ Tỳ khưu. Ðức vua vô cùng hoan hỉ lời giáo huấn của Ðức Thế Tôn, rồi đảnh lễ Ngài xin phép ngự trở về.
Do nguyên nhân ấy, nên Ðức Phật chế định rằng:
“Na bhikkhave ananuññāto mātāpitūhi putto pabbajetabbo, yo pabbajeyya, āpatti dukkaṭassa” (Vinayapiṭaka, bộ Mahāvagga, phần Mahākhandhaka.)
“Này chư Tỳ khưu, người con nào mà cha mẹ chưa cho phép, Tỳ khưu không nên cho phép xuất gia, Tỳ khưu nào cho phép xuất gia, Tỳ khưu ấy phạm āpatti dukkaṭa (phạm tác ác)”.
Trường hợp cha mẹ qua đời rồi, thì người con ấy phải được người thân, thay thế cha mẹ cho phép mới được xuất gia.