Ðức Bồ Tát đã toàn thắng Ác Ma Thiên có quyền lực bậc nhất, do nhờ 30 pháp hạnh ba la mật tròn đủ.
Trong Tăng Chi bộ kinh (Anguttaranikāya, Catukkanipāta, kinh Pannatisutta), Ðức Phật dạy có bốn chúng sinh được chế định là bậc siêu việt nhất (aggapannatti).
– Trong tất cả chúng sinh có thân hình to lớn, chỉ có Rāhu Asurinda là thiên nam có thân hình to lớn nhất.
– Trong tất cả chúng sinh hưởng lạc ngũ trần, chỉ có Ðức vua Mandhātu, bậc Chuyển luân thánh vương, là người hưởng lạc bậc nhất.
– Trong tất cả chúng sinh có quyền lực, chỉ có Ác Ma Thiên là thiên vương có quyền lực bậc nhất.
– Trong tất cả loài người, vua chúa, Sa môn, Bà la môn, chư thiên, Phạm thiên toàn cõi thế giới, chỉ có Ðức Phật là bậc Vô thượng.
Ác Ma Thiên là thiên vương có quyền lực bậc nhất ở cõi Tha hóa tự tại thiên (Paranimmitavasavatti), là tầng trời thứ sáu tột cùng của cõi trời Dục giới, y có ác tâm không muốn một chúng sinh nào giải thoát khổ tử sanh luân hồi trong tam giới, nên y cám dỗ bằng những miếng mồi ngũ trần của y như sắc đẹp, tiếng hay, mùi thơm, vị ngon, xúc êm ấm, hoặc danh cao, chức lớn, quyền lợi… để làm cho chúng sinh ấy say mê, đắm đuối trong sắc thân, trong cảnh giới ấy. Nếu dùng mồi cám dỗ không được, y dùng đến phép thuật, các loại vũ khí, làm cho đối phương phải khuất phục.
SỨ MẠNG ÐỨC BỒ TÁT GIÁNG SINH
Theo bộ Chú giải Buddhavaṁsa, Ðức Bồ Tát Siddhattha, tiền thân kiếp áp chót là một vị thiên nam ở cõi trời Tusita (Ðẩu suất đà thiên) tên là Setaketu. Ðến thời kỳ Ðức Bồ Tát sẽ trở thành bậc Chánh Ðẳng Giác, nên chư thiên, Phạm thiên trong mười ngàn thế giới hội họp lại cùng nhau đến kính thỉnh Ngài tái sianh làm người, đi xuất gia để trở thành bậc Chánh Ðẳng Giác, tế độ chúng sinh.
Ðức Setaketu bèn quán xét 5 điều:
– Thời kỳ tuổi thọ con người: Khoảng 100 năm.
– Châu để tái sinh: Nam thiện bộ châu.
– Quốc độ tái sinh: Trung Ấn Ðộ, kinh thành Kapilavatthu.
– Dòng dõi tái sinh: Hoàng tộc Sakya.
– Thời gian tuổi thọ Phật mẫu: Chánh cung Hoàng hậu Mahāmayādevī có tuổi thọ còn đúng 10 tháng lẻ 7 ngày.
Ngài quán xét thấy đầy đủ 5 điều trên, nên nhận lời thỉnh cầu của chư thiên, Phạm thiên.
Từ cõi trời Tusita, Ngài giáng sinh vào lòng Phật mẫu Mahāmayādevī, Chánh cung Hoàng hậu của Ðức vua Suddhodana trị vì kinh thành Kapilavatthu, nhằm vào ngày rằm tháng sáu âm lịch. Lúc ấy, Hoàng hậu ở độ 55 tuổi 6 tháng 20 ngày, Bà mang thai tròn đúng 10 tháng. Ðến ngày rằm tháng tư âm lịch năm sau, Ngài đản sinh tại vườn Lumbini và đặt tên là Siddhattha. Ngài có đủ 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp.
Ðức vua Suddhodana thỉnh mời các vị thầy Bà la môn vào cung điện xem tướng cho Ngài. Có 7 vị Bà la môn đều tiên đoán rằng: “Nếu Thái tử sống tại gia sẽ trở thành bậc Chuyển luân thánh vương, nếu xuất gia sẽ trở thành bậc Chánh Ðẳng Giác”. Trong 7 vị ấy, Sudatta, một Bà la môn nhỏ tuổi nhất thuộc dòng Kondanna, khẳng định rằng: “Chắc chắn Thái tử sẽ xuất gia và sẽ trở thành bậc Chánh Ðẳng Giác”.
Sau khi Ngài đản sinh được 7 ngày thì Hoàng hậu Mahāmayādevī quy thiên, tái sanh lên cõi trời Tusita, trở thành một vị thiên nam tên Santussita.
Thái tử Siddhattha trưởng thành, năm 16 tuổi, được phụ vương truyền ngôi vua và thành hôn cùng Công chúa Yasodhara, Ngài trị vì thiên hạ đem lại sự hạnh phúc an lành cho muôn dân.
ÐỨC BỒ TÁT XUẤT GIA
*Lần đầu tiên vào ngày rằm tháng 6, Ðức vua Bồ Tát đi du ngoạn vườn Thượng uyển. Trên đường đi, bỗng nhiên Ngài nhìn thấy một người già, do chư thiên biến hóa để làm cho Ngài phát sinh động tâm (samvega). Thật vậy, Ngài chưa từng nhìn thấy người già như thế bao giờ, cho nên Ngài suy tư: “Chắn chắn ta cũng có sự già như thế, không thể tránh khỏi sự già được”, nỗi ưu tư tràn ngập trong lòng, không còn muốn đi nữa, Ngài truyền bảo người đánh xe đưa Ngài hồi cung.
* Lần thứ nhì, cách 4 tháng sau, vào ngày rằm tháng 10, Ðức vua lại đi du ngoạn vườn Thượng uyển. Trên đường đi, lần này Ngài nhìn thấy một người bệnh, cũng do chư thiên biến hóa. Cũng như lần trước, Ngài suy tư: “Chắc chắn ta cũng có sự bệnh như thế, không thể tránh khỏi sự bệnh được”, tâm trạng u buồn, Ngài truyền lệnh bảo người đánh xe đưa Ngài hồi cung.
* Lần thứ ba, cách 4 tháng sau, vào ngày rằm tháng hai, để vơi bớt nỗi buồn, Ðức vua lại muốn đi du ngoạn vườn Thượng uyển. Trên đường đi, bất chợt Ngài nhìn thấy một người chết, cũng do chư thiên biến hoá. Cũng như hai lần trước, Ngài suy tư: “Chắc chắn ta cũng có sự chết như thế, không thể tránh khỏi sự chết được”, nỗi lo sợ phát sanh trong lòng, Ngài truyền lệnh bảo người đánh xe đưa Ngài hồi cung.
Từ đó, Ðức Bồ Tát lúc nào cũng suy tư về sự già, sự bệnh, sự chết. Ngài tự hỏi, có con đường nào giải thoát sự già, sự bệnh, sự chết hay không? Sở dĩ có sự già, sự bệnh, sự chết là vì có sự tái sinh. Ôi! Sự tái sinh đáng kinh sợ thật!
* Lần thứ tư, sau 4 tháng, vào ngày rằm tháng sáu, để khuây khỏa nỗi u buồn, lo sợ trong lòng, một lần nữa, Ðức vua đi du ngoạn vườn Thượng uyển. Trên đường đi, Ngài nhìn thấy một Bậc xuất gia đang tĩnh tọa dưới cội cây tỏ vẻ an nhiên tự tại, cũng do chư thiên biến hóa, để làm cho Ngài nghĩ đến việc xuất gia. Thật vậy, khi Ðức Bồ Tát nhìn thấy Bậc xuất gia liền trút bỏ mọi nỗi ưu tư nặng trĩu trong lòng về sự già, sự bệnh, sự chết. Ngài quyết định xuất gia ngay đêm ấy để tìm con đường giải thoát sự tái sinh, là giải thoát khổ lão, bệnh, tử…. Hôm ấy, Ðức Bồ Tát cảm thấy vô cùng hoan hỷ, nên Ngài vẫn tiếp tục đi du lãm vườn Thượng uyển.
Khi Ðức Bồ Tát hồi cung, trong đêm ấy nghe tin Hoàng hậu Yasodhara hạ sanh Hoàng tử, tình thương con trỗi dậy trong lòng, Ngài than rằng: “Sự ràng buộc lớn!”. Do đó, Hoàng tử được đặt tên là “Rāhula”. Mặc dù vậy, chí nguyện xuất gia của Ðức Bồ Tát vẫn không thay đổi, đêm ấy Ngài đến tìm Channa, người cận thần thân tín, bảo:
“Này Channa, đêm nay ta sẽ rời hoàng cung đi xuất gia, ngươi hãy sửa soạn cho ta con ngựa Kandaka ngay bây giờ, không cho một ai hay biết”.
Bỗng nhiên Ngài thoáng nghĩ: “Trước khi xuất gia, ta nên đến nhìn mặt Hoàng nhi”. Ngài lén vào phòng Hoàng hậu Yasodhara, dưới ánh đèn mờ nhạt, Hoàng hậu đang nằm nghiêng, choàng cánh tay trái qua Hoàng tử, vì đứng đằng sau nên không thể nhìn rõ mặt, Ngài thầm nghĩ: “Nếu ta đến gần e Hoàng hậu sẽ thức giấc làm trở ngại việc xuất gia của ta trong đêm nay. Bây giờ ta chưa nhìn thấy mặt hoàng nhi, thì chờ sau khi ta chứng đắc thành bậc Chánh Ðẳng Giác, ta sẽ trở về gặp sau cũng không muộn”.
Ðức Bồ Tát nhẹ nhàng bước ra, lên ngựa Kandaka, còn Channa theo sau, vào lúc nửa đêm ngày rằm tháng sáu âm lịch, trốn khỏi hoàng cung đi xuất gia. Mỗi vó ngựa đều có bàn tay chư thiên nâng đỡ, không phát ra một tiếng động, nên không một ai hay biết. Ðến cửa thành có chư thiên mở cửa cho ngựa Kandaka phi nhanh qua.
ÁC MA THIÊN CẢN TRỞ ÐỨC BỒ TÁT XUẤT GIA
Khi Ðức Bồ Tát ra khỏi thành, Ác Ma Thiên ở cõi Tha hoá tự tại thiên biết rõ chí nguyện xuất gia của Ngài, sợ rằng nếu Ngài trở thành bậc Chánh Ðẳng Giác, thì không chỉ riêng Ngài giải thoát cảnh khổ tử sinh luân hồi trong tam giới, mà Ngài còn tế độ chúng sinh khác cũng giải thoát như Ngài. Như vậy, họ sẽ giải thoát quyền lực của y, nên Ác Ma Thiên tìm cách cản trở việc xuất gia của Ðức Bồ Tát.
Ác Ma Thiên liền hiện xuống cản đường Ðức Bồ Tát thưa rằng: “Kính thưa bậc Thượng nhân, xin Ngài đừng vội xuất gia, Ngài nên trở lại hoàng cung vì chỉ còn 7 ngày nữa Ngài chắc chắn sẽ trở thành bậc Chuyển luân thánh vương trị vì bốn châu lớn, hai ngàn châu nhỏ, có đầy đủ thất báu: xe báu, ngựa báu, voi báu, ngọc ma ni báu, Hoàng hậu báu, phú hộ báu, tể tướng báu, thọ hưởng lạc thú ở cõi đời. Thưa Ngài”.
Ðức Bồ Tát hỏi rằng:
– Ngươi là ai mà dám cản đường ta.
Ác Ma Thiên tâu rằng:
– Tâu bậc Thượng nhân, quả nhân là Ma vương (Māra) ở cõi Tha hoá tự tại thiên.
– Này Ác Ma Thiên, những điều ngươi nói ta đã biết rõ, nhưng ta không cần trở thành bậc Chuyển luân thánh vương, ta chỉ mong trở thành bậc Chánh Ðẳng Giác để tế độ chúng sinh, giải thoát cảnh khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài. Này Ác Ma, hãy tránh ra, ngươi không thể cản được ta đâu!
Ác Ma Thiên không thuyết phục được Ðức Bồ Tát, nên kể từ ngày ấy, luôn luôn theo dõi, cố tìm chỗ sơ hở, nhược điểm của Ðức Bồ Tát để ngăn cản Ngài.
Ðêm rằm tháng sáu, ánh trăng sáng tỏ lạ thường, chư thiên lại còn dùng hào quang của mình làm ánh sáng soi đường cho Ngài, ánh hào quang lan rộng khắp toàn thế giới, trên mặt đất các loài hoa nở rộ, toả ra mùi hương thơm ngát, trên hư không, chư thiên rải đầy hoa manda, vật thơm và các nhạc cụ ở cõi trời trỗi lên, những khúc nhạc du dương trầm hùng… để cúng dường Ðức Bồ Tát. Ngài đi qua xứ Sakya, Koliya và Malla khoảng 30 do tuần, chỉ trong một đêm, đến bờ sông Anomā, Ngài ra hiệu cho ngựa Kandaka và vị cận thần cùng bay qua bên kia sông. Xuống ngựa, Ngài bảo Channa rằng:
– Này Channa, ta sẽ làm lễ xuất gia tại nơi đây, còn con hãy đem những đồ trang phục và ngựa Kandaka của ta trở về hoàng cung tâu cho phụ hoàng ta biết.
Channa lưu luyến với Ngài tâu:
– Tâu thánh thượng, xin Ngài cho phép kẻ hạ thần này được xuất gia cùng Ngài.
Ngài không cho phép Channa xuất gia, rồi truyền lệnh đem tất cả đồ trang phục trở về hoàng cung trình cho Ðức vua Suddhodana biết. Vị cần thần tuân lệnh, cúi đầu xin phép lên đường. Khi ấy, Ngài dùng thanh kiếm báu cạo sạch râu, cắt tóc ngắn độ còn hai lóng tay, cắt xong, phần tóc còn lại, tự xoắn theo vòng xoáy khu ốc sang bên phải nằm sát trên da đầu. Chỉ một lần ấy thôi, từ đó về sau suốt cả cuộc đời, Ngài không phải cắt tóc, cạo râu nữa.
Sau khi cắt xong, Ngài cầm nắm tóc trên tay phát nguyện: “Nếu tôi sẽ trở thành bậc Chánh Ðẳng Giác, thì xin cho nắm tóc này ở trên hư không; nếu tôi không thể trở thành Bậc Chánh Giác, thì nắm tóc này sẽ rơi xuống đất”.
Ngài ném nắm tóc lên. Thật phi thường thay! nắm tóc bay thẳng lên hư không khoảng một do tuần rồi ở nguyên một chỗ, Ðức vua trời Sakka đem hộp bằng ngọc đựng nắm tóc của Ngài để tôn thờ nơi ngôi bảo tháp Cūlamani tại cung Tam thập tam thiên.
Khi ấy, vị Ðại Phạm thiên Ghatikāra là bạn thân cũ của tiền thân Ngài trong thời kỳ Ðức Phật Kassapa, biết Ngài hôm nay xuất gia nên đem 8 món đồ dùng của Sa môn đến kính dâng Ngài. Ngài mặc y cà sa màu lõi mít xuất gia trở thành Tỳ khưu.
ÐỨC BỒ TÁT THỌ GIÁO PHÁP HÀNH THIỀN ÐỊNH
Ngài tìm đến vị Ðạo sư Ālāra Kālāmagotta xin thọ giáo, vị Ðạo sư hân hoan tiếp nhận Ngài rồi truyền dạy pháp môn thiền định. Trải qua thời gian không lâu, Ngài đã chứng đắc năm bậc thiền hữu sắc và chứng đắc đến đệ tam thiền vô sắc gọi là Vô sở hữu xứ thiền (Akincannāyatanajjhāna), ngang bằng với bậc thiền mà vị Ðạo sư Ālāra Kālāmagotta đã chứng đắc
Vị Ðạo sư tán dương, ca tụng Ngài:
– Tôi đã chứng đắc đến bậc thiền vô sắc nào, hiền giả cũng chứng đắc đến bậc thiền vô sắc ấy. Hiền giả chứng đắc bậc thiền vô sắc nào, tôi cũng đã chứng đắc bậc thiền vô sắc ấy.
Này Hiền giả, từ nay hai chúng ta cùng nhau làm Ðạo sư dạy dỗ nhóm đệ tử này.
Ngài nghĩ rằng: “Bậc đệ tam thiền vô sắc Vô sở hữu xứ thiền này sẽ cho quả tái sanh lên cõi phạm thiên vô sắc giới, Vô sở hữu xứ thiên, có tuổi thọ sống lâu đến 60.000 đại kiếp, không phải là pháp dẫn đến sự nhàm chán ngũ uẩn, không diệt tận được tham ái, không đoạn tuyệt được phiền não, không chứng ngộ chân lý Tứ Thánh đế, không tịch diệt Niết Bàn, không giải thoát được mọi cảnh khổ sanh, lão, bệnh, tử luân hồi trong tam giới”.
Ðức Bồ Tát không bằng lòng với sở đắc của mình, nên Ngài xin từ giã vị Ðạo sư Ālāra Kālāmagotta khả kính, để đi tìm pháp môn khác hầu mong giải thoát khổ sanh, lão, bệnh, tử.
Sau khi từ giã vị Ðạo sư Ālāra Kālāmagotta, Ngài tìm đến vị Ðạo sư Udaka Rāmaputta xin thọ giáo, vị Ðạo sư hân hoan tiếp nhận Ngài rồi truyền dạy pháp môn thiền định. Trải qua thời gian không lâu, Ngài đã chứng đắc 5 bậc thiền hữu sắc và chứng đắc đệ tứ thiền vô sắc gọi là “Phi tưởng phi phi tưởng xứ thiền” (Nevasannānāsannāyatanajjh
Vị Ðạo sư tán dương ca tụng Ngài rằng:
– Tôi đã chứng đắc bậc thiền vô sắc tột cùng nào, hiền giả cũng chứng đắc bậc thiền vô sắc tột cùng ấy. Hiền giả chứng đắc bậc thiền vô sắc tột cùng nào, tôi cũng đã chứng đắc bậc thiền vô sắc tột cùng ấy.
Này Hiền giả, tôi xin thỉnh hiền giả làm Ðạo sư dạy dỗ nhóm đệ tử này.
Ngài suy xét rằng: “Bậc đệ tứ thiền vô sắc Phi tưởng phi phi tưởng xứ thiền này sẽ cho quả tái sanh lên cõi trời Phạm thiên vô sắc giới, Phi tưởng phi phi tưởng xứ thiên có tuổi thọ sống lâu đến 84.000 đại kiếp, không phải là pháp dẫn đến sự nhàm chán ngũ uẩn, không diệt tận được tham ái, không đoạn tuyệt được phiền não, không chứng ngộ chân lý Tứ Thánh đế, không tịch diệt Niết Bàn, không giải thoát được mọi cảnh khổ sanh, lão, bệnh, tử luân hồi trong tam giới”.
Ngài xin từ giã Ðạo sư Udaka Rāmaputta khả kính, để đi tìm pháp môn khác, hầu mong giải thoát khổ sanh, lão, bệnh, tử.
ÐỨC BỒ TÁT HÀNH KHỔ HẠNH
Từ giã vị Ðạo sư Udaka Rāmaputta, Ðức Bồ Tát đi đến khu rừng Uruvela gần con sông Neranjarā, nơi đây có nhóm năm Tỳ khưu, Ngài Kondanna trưởng nhóm cùng với các Ngài Vappa, Ngài Bhaddhiya, Ngài Mahānāma và Ngài Assaji xin theo hộ độ Ðức Bồ Tát.
Ðức Bồ Tát tinh tấn hành pháp khổ hạnh (Dukkaracariyā), phương pháp nín thở ra – vô bằng miệng và mũi, hơi thở thoát ra ở hai lỗ tai, rồi tiếp tục nín thở ra – vô bằng miệng, bằng mũi và ngăn không để hơi thoát ra hai lỗ tai, hơi đâm lên trên đầu đau dữ dội, hơi đâm xuống bụng đau tức tối, hơi phát nóng toàn thân kinh khủng đến nỗi làm cho Ngài chết ngất.
Có số chư thiên tưởng rằng: “Sa môn Gotama đã chết rồi”. Số khác tưởng rằng: “Sa môn Gotama đang gần chết!”. Số khác cho rằng: “Sa môn Gotama không phải chết, cũng không phải đang gần chết, mà Sa môn Gotama đang hành pháp bậc Thánh Arahán”.
ÁC MA THIÊN KHUYÊN ÐỨC BỒ TÁT
Trước đây Ác Ma Thiên đã từng cản trở Ðức Bồ Tát đi xuất gia không được, từ đó ngày đêm y vẫn theo dõi Ðức Bồ Tát hòng tìm lỗi lầm của Ngài nhưng vẫn chưa thấy, dù một lỗi nhỏ, chỉ thấy Ngài có chí kiên trì, có tánh cương quyết tinh tấn không thoái chí, như vậy không sớm thì muộn chắc chắn sẽ chứng đắc thành bậc Chánh Ðẳng Giác. Ác Ma Thiên nghĩ rằng:
“Tốt hơn hết, ta nên kịp thời cản trở việc chứng đắc của Ðức Bồ Tát”.
Ác Ma Thiên liền hiện xuống khu rừng Uruvela bạch rằng:
– Thưa Ðức vua Siddhattha, Ngài quyết chí tinh tấn hành khổ hạnh như vậy chỉ tự làm khổ mình, rồi cũng chẳng biết chết lúc nào.
Thưa Ðức vua Siddhattha, xin Ngài bảo trọng sanh mạng, sự sống lâu là điều tốt, nhờ sống lâu, Ngài còn có cơ hội tạo mọi thiện pháp như bố thí, giữ giới, thờ cúng thần lửa, hành thiền định…. Sự hành khổ hạnh của Ngài chẳng có lợi ích gì, chỉ tự làm khổ thân mình mà thôi.
Nghe lời tha thiết đầy lòng thương hại của Ác Ma Thiên, Ngài từ tốn đáp lại rằng:
– “Này Ác Ma Thiên, Ngươi không muốn một ai giải thoát khổ trong vòng tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài, vì vậy, Ngươi luôn luôn tìm mọi cách cản trở việc tu hành giải thoát khổ của ta.
Này Ác Ma Thiên, Ngươi ca tụng mọi thiện pháp là thứ thiện nghiệp ấy còn cho quả tái sinh, hễ còn tái sinh là còn phải chịu bao nhiêu cảnh khổ.
Này Ác Ma Thiên, ngươi chẳng bao giờ lung lạc được chí nguyện của ta đâu. Dầu thân ta chỉ còn da bọc xương, máu huyết khô cạn, khi ta chưa chứng đắc thành bậc Chánh Ðẳng Giác, ta vẫn chưa chịu từ bỏ sự tinh tấn hành đạo”.
Một lần nữa, Ác Ma Thiên thất bại.
Ngài tiếp tục giảm vật thực dần dần, ban đầu độ vật thực chỉ vừa lòng bàn tay, từ từ giãm xuống chỉ còn bằng hạt sen…. Do đó, kim thân của Ngài gầy ốm còn da bọc xương, đến nỗi sờ da bụng thì đụng phải đường xương sống. Trước kia kim thân của Ðức Bồ Tát có đầy đủ 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp với làn da màu vàng sáng ngời, đến nay các tướng tốt và vẻ đẹp đã biến mất còn làn da trở thành màu đen sẫm.
Một hôm Ðức Bồ Tát suy xét: “Ta đã hành pháp khổ hạnh đến chỗ cùng tột rồi. Trong quá khứ, chưa từng có Sa môn, Bà la môn nào đã hành pháp khổ hạnh đến mức như ta đang hành. Hiện tại và vị lai cũng không có Sa môn, Bà la môn nào có thể hành pháp khổ hạnh như ta, thế mà ta không thể chứng đắc thành bậc Chánh Ðẳng Giác. Như vậy, chắc chắn phải còn có một pháp hành nào khác”.
Ngài đã hành pháp khổ hạnh ròng rã suốt 6 năm trường mà vẫn chưa chứng đắc thành bậc Chánh Ðẳng Giác. Ngài hồi tưởng lại khi còn nhỏ cùng phụ vương ra đồng làm lễ hạ điền, phụ vương để Ngài ngồi trong một chiếc lều vải dưới gốc cây Trâm, Ngài đã niệm về đề mục hơi thở vô – ra và đã chứng đắc đệ nhất thiền hữu sắc. Như vậy, chắc chắn pháp hành thiền định này làm nền tảng, đưa đến sự chứng đắc thành bậc Chánh Ðẳng Giác cũng nên!
Sau đó, Ngài suy xét tiếp rằng: “Bây giờ thân thể ta gầy ốm, sức khỏe yếu đuối, ta không thể tiến hành thiền định đề mục niệm hơi thở, vậy điều tốt hơn hết, ta nên độ vật thực trở lại cho có sức khoẻ rồi mới có thể tiến hành thiền định được”.
Quyết định như vậy xong, Ðức Bồ Tát mang bát vào xóm Senà đi khất thực, thọ thực được ít lâu, sức khỏe Ngài được hồi phục trở lại, kim thân của Ngài lại hiện rõ 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp, và làn da trở lại màu vàng sáng ngời như trước.
Canh chót, vào đêm 14 tháng 4 âm lịch, Ngài nằm thấy năm đại mộng, qua năm đại mộng này, Ngài đoán biết mình chắc chắn sẽ chứng đắc thành bậc Chánh Ðẳng Giác.
Sáng hôm rằm tháng tư âm lịch, Ngài đi đến ngồi dưới gốc cây Da chờ đến giờ đi vào xóm khất thực.
Tại nơi đây hằng năm vào ngày rằm tháng tư này, nàng Sujātā thường đem lễ vật đến cúng dường, tạ ơn chư thiên, theo lời nguyện của nàng.
Nàng Sujātā là con gái của ông phú hộ Mahāsena ở làng Senà gần khu rừng Uruvela, khi nàng trưởng thành có đến tại gốc cây Da này cầu nguyện rằng:
“Kính thưa chư thiên tại nơi đây, nếu tôi có chồng cùng dòng Bà la môn và có đứa con trai đầu lòng, thì hằng năm, vào ngày rằm tháng tư, tôi sẽ đem cơm nấu bằng sữa bò đến đây cúng dường quý Ngài”.
Lời cầu nguyện của nàng được thành tựu như ý, cho nên hằng năm vào ngày rằm tháng tư, nàng đem cơm sữa đến cúng dường tạ ơn chư thiên.
Từ sáng sớm, nàng Sujātā thức dậy vắt sữa tinh khiết tám con bò, khi nàng đem nồi đựng sữa để gần vú con bò thứ nhất, dòng sữa chảy ra một mạch. Thật là một việc lạ thường chưa từng có bao giờ! Lần lượt bảy con bò còn lại, dòng sữa cũng chảy một mạch như vậy. Khi nàng đổ sữa vào nồi nấu cơm, nước sữa sôi xoay tròn bên phải, không một giọt nào chảy tràn ra bên ngoài, còn lửa củi cháy đều không có một làn khói nào bốc lên. Sở dĩ, có những việc lạ thường như vậy, là vì sáng nay có Tứ đại thiên vương trông coi lò lửa, vua trời Sakka lấy củi bỏ vào lò, vua trời Phạm thiên che dù, tất cả chư thiên đem những chất bổ dưỡng do năng lực của mình bỏ vào nồi cơm sữa.
Nàng Sujātā gọi tớ gái tên Punnà bảo rằng:
– Này Punnā, hôm nay chư thiên của ta thật đáng kính, trước đây ta chưa từng chứng kiến những hiện tượng lạ thường như thế này!
Con hãy mau đến cội cây Da quét dọn cho sạch sẽ, để chúng ta mang cơm sữa đến dâng cúng, tạ ơn chư thiên.
Người tớ gái Punnā vâng lời đến gốc cây Da để quét dọn, cô nhìn thấy Ðức Bồ Tát đang ngồi quay mặt về hướng Ðông, từ kim thân của Ngài phát ra hào quang sáng ngời toả khắp quanh vùng, cô nghĩ rằng:
“Sáng hôm nay, vị Thiên thần của chúng ta hiện xuống ngồi đợi thọ nhận cơm sữa cúng dường”, nên cô vô cùng hoan hỷ vội vàng trở về báo tin mừng cho bà chủ biết.
Nàng Sujātā nghe lời tường trình rõ ràng của người tớ gái, trong lòng cảm thấy vui mừng khôn xiết và bảo rằng:
– Này Punnā, kể từ hôm nay con trở thành con gái lớn của ta. Nói xong, nàng ban cho những đồ trang sức quý giá, xứng đáng với địa vị con gái lớn của mình.
Nàng Sujātā đem chiếc mâm bằng vàng để đựng cơm, khi nàng đặt mâm gần nồi cơm, cơm sữa trong nồi tự nhiên viên lại thành vắt bằng trái thốt nốt lăn tuần tự từ nồi sang mâm đúng 49 vắt thì vừa đầy.
Nàng lại chứng kiến thêm một việc lạ thường chưa từng có bao giờ. Nàng lấy một chiếc mâm khác đậy lại rồi phủ lên một lớp vải trắng tinh.
Hôm ấy, nàng Sujātā trang điểm bằng những đồ trang sức quý giá rồi đội mâm cơm sữa cùng người con gái lớn Punnà đi theo sau đến gốc cây Da. Nhìn thấy Ðức Bồ Tát có đầy đủ tướng tốt và các vẻ đẹp, hào quang tỏa ra từ kim thân của Ngài sáng khắp vùng, làm cho nàng phát sanh đức tin trong sạch và vô cùng hoan hỷ chưa từng có bao giờ, vì nàng tưởng rằng Ngài là một vị thiên nam hiện xuống thọ nhận phẩm vật cúng dường tạ ơn của nàng.
Nàng Sujātā cung kính đến gần Ðức Bồ Tát, đặt chiếc mâm vàng đầy cơm sữa cùng bình nước, hoa quả, vật thơm… cung kính dâng lên Ngài, cái bát của Ngài bỗng nhiên biến mất, nên Ngài đưa hai tay ra nhận lấy chiếc mâm vàng đầy phẩm vật quý giá rồi nhìn nàng Sujātā. Nàng liền bạch rằng:
“Kính bạch Ðức thiên thần, con thành kính dâng Ngài chiếc mâm vàng đầy phẩm vật này, kính xin Ngài từ bi hoan hỷ thọ nhận, để cho con được sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc lâu dài; con được toại nguyện như thế nào, kính xin Ngài cũng toại nguyện như thế ấy”. Nàng Sujātā vô cùng hoan hỷ. Sau khi thọ nhận xong, Ngài đứng dậy rời gốc cây Da, tay cầm chiếc mâm vàng đầy cơm sữa đi đến bến sông Neranjarā, nơi mà chư Bồ Tát quá khứ trước khi chứng đắc thành bậc Chánh Ðẳng Giác cũng đều ngự đến đây để tắm, nên bến sông này gọi là bến Supatitthita; Ngài đặt mâm ở bến Supatitthita, rồi xuống dòng sông Neranjarā tắm. Khi tắm xong, Ngài mặc y cà sa tượng trưng lá cờ chiến thắng của chư Thánh Arahán; đoạn Ngài ngồi quay mặt về hướng Ðông, độ hết 49 vắt cơm, rồi uống hết bình nước (từ đó về sau suốt 7 tuần lễ (49 ngày), Ðức Phật không độ vật thực và nước, chỉ an hưởng hương vị giải thoát Niết Bàn).
Sau khi độ cơm xong, Ngài cầm chiếc mâm vàng phát nguyện rằng:
“Nếu hôm nay ta được chứng đắc thành bậc Chánh Ðẳng Giác, thì xin cho chiếc mâm vàng này sẽ trôi ngược dòng nước; nếu không, thì chiếc mâm vàng này sẽ trôi xuôi theo dòng nước”.
Nguyện xong, Ngài ném chiếc mâm vàng xuống dòng sông. Thật phi thường thay! Chiếc mâm vàng cắt dòng nước đang chảy trôi ra giữa sông, rồi từ đó trôi ngược dòng nước một cách vô cùng mau lẹ, một đoạn khá xa, chiếc mâm vàng chìm sâu xuống đáy nước, đụng phải ba chiếc mâm vàng của ba Ðức Phật quá khứ là Ðức Phật Kakusandha, Ðức Phật Konāgamana và Ðức Phật Kassapa, phát ra một âm thanh vang dội, làm cho Long vương Kālanāga tỉnh giấc nghĩ rằng: “Hôm qua một Ðức Phật đã xuất hiện, hôm nay sẽ có một Ðức Phật nữa xuất hiện”, rồi thức dậy tán dương ca tụng hằng trăm bài kệ.
Trưa hôm ấy, Ngài nghỉ trong một khu rừng Sāla, những cây Sāla đua nhau nở hoa khắp cả khu rừng, bên bờ sông Neranjarā. Buổi chiều Ngài ngự đến cội cây Assattha, dọc theo hai bên đường, chư thiên trang hoàng những đoá hoa trời rất xinh đẹp, các hàng chư thiên ở các cõi trời đua nhau cúng dường hương thơm cùng với thiên nhạc vang rền khắp 10 ngàn thế giới chúng sinh. Cùng lúc ấy, một người cắt cỏ tên Sotthiya, trên đường đi ngược chiều lại phía Ngài, nhìn thấy Ngài, liền phát sanh đức tin trong sạch, nên dâng cúng Ngài tám nắm cỏ, Ngài cầm tám nắm cỏ ngự thẳng đến cội cây Assattha.
Khi đứng hướng Nam của cội cây, Ngài nhìn thẳng về hướng Bắc, Ngài có cảm giác mất thăng bằng, như toàn cõi thế giới hướng Nam bị chìm sâu xuống cõi địa ngục Avīci, còn toàn cõi thế giới hướng Bắc được nổi lên đến cõi trời sắc giới Phạm thiên tột đỉnh. Ngài nghĩ rằng: “Ðây không phải là chỗ ngồi để ta có thể chứng đắc thành bậc Chánh Ðẳng Giác”. Ngài ngự đi sang hướng khác.
Khi đứng hướng Tây của cội cây, Ngài nhìn thẳng về hướng Ðông, cũng như vậy, Ngài có cảm giác mất thăng bằng, như toàn cõi thế giới hướng Tây bị chìm sâu xuống cõi điạ ngục Avīci, còn toàn cõi thế giới ở hướng Ðông được nổi lên đến cõi trời sắc giới Phạm thiên tột đỉnh. Ngài nghĩ rằng: “Ðây cũng không phải là chỗ ngồi để ta có thể chứng đắc thành bậc Chánh Ðẳng Giác”. Ngài ngự sang hướng khác.
Khi đứng hướng Bắc của cội cây, Ngài nhìn thẳng hướng Nam, cũng như vậy, Ngài có cảm giác mất thăng bằng, như toàn cõi thế giới hướng Bắc bị chìm sâu xuống điạ ngục Avīci, còn toàn cõi thế giới ở hướng Nam được nổi lên đến cõi trời sắc giới phạm thiên tột đỉnh, Ngài nghĩ rằng: “Ðây cũng không phải là chỗ ngồi để ta có thể chứng đắc thành bậc Chánh Ðẳng Giác”. Ngài ngự sang hướng khác.
Sau cùng, đứng hướng Ðông của cội cây, Ngài nhìn thẳng về hướng Tây, thật phi thường thay! Ngài có cảm giác toàn cõi thế giới thăng bằng, Ngài nghĩ rằng: “Chính đây là chỗ ngồi để ta có thể chứng đắc thành bậc Chánh Ðẳng Giác”. Ngài trải tám nắm cỏ tại hướng Ðông của cội Assattha. Thật phi thường thay! ngay khi ấy trở thành ngôi bồ đoàn quý báu, có chiều cao 14 hắc tay thật nguy nga lộng lẫy, không có một nhà kiến trúc mỹ thuật nào có thể tạo nên một bồ đoàn tuyệt đẹp như vậy! Bởi vì ngôi bồ đoàn quý báu này phát sanh do phước báu ba la mật tròn đủ của Ðức Bồ Tát sắp trở thành bậc Chánh Ðẳng Giác.
Ngài ngồi kiết già vững vàng trên ngôi bồ đoàn quý báu, quay mặt về hướng đông rồi phát nguyện rằng:
“Dầu cho thịt và máu trong thân ta khô cạn hết, dầu sắc thân này chỉ còn da bọc xương đi nữa, nếu ta chưa chứng đắc thành bậc Chánh Ðẳng Giác, ta quyết không bao giờ rời khỏi bồ đoàn này”.
ÁC MA THIÊN TRANH GIÀNH NGÔI BỒ ÐOÀN
Từ lâu, Ác Ma Thiên vẫn luôn luôn theo dõi để tìm cách cản trở việc hành đạo của Ðức Bồ Tát, bằng lời nói, cả hai lần đều thất bại, vì không thể làm cho Ðức Bồ Tát thoái chí. Nay Ác Ma Thiên nhìn thấy bồ đoàn quý báu hiện lên và nghe lời phát nguyện từ lòng quyết tâm đanh thép của Ðức Bồ Tát, y cảm thấy rúng động thật sự. Bây giờ đã đến giai đoạn quyết liệt, Ác Ma Thiên tự nghĩ: “Ta đã dùng địa vị của bậc Chuyển luân thánh vương để cám dỗ cũng thất bại và đã dùng lời ân cần tha thiết khuyến dụ cũng không làm lay chuyển được Sa môn Gotama. Bây giờ chỉ còn cách duy nhất là dùng sức mạnh của chúng thiên ma và những loại phép thuật lợi hại của ta để đánh đuổi Sa môn Gotama, quyết tranh giành ngôi bồ đoàn quý báu ấy về cho ta mà thôi”.
Thế rồi, Ác Ma Thiên huy động toàn bộ lực lượng thiên ma binh, thiên ma tướng hùng hậu, trang bị tất cả mọi khí giới hình thù quái dị, kinh khủng nhất, rầm rộ rời khỏi Tha hoá tự tại thiên. Ác Ma Thiên cưỡi voi Girimekhala đi đầu, hoá ra ngàn cánh tay đều cầm khí giới khác nhau, cùng chúng thiên ma hiện xuống vây chặt xung quanh cội Assattha, kéo dài 12 do tuần, bên trên hư không dày đặc 9 do tuần, chúng la hét, âm thanh vang dội kinh khủng làm chấn động khắp mọi nơi.
Vừa rồi có 10 ngàn thế giới chư thiên, chư Phạm thiên đến cung kính cúng dường, tán dương ca tụng Ðức Bồ Tát như vua trời Sakka thổi còi Vijayutara, Long vương Mahākāla tán dương Ðức Bồ Tát hàng trăm bài kệ, vị trời Ðại Phạm thiên cầm lọng vàng che cho Ngài… nhưng khi thoáng thấy Ác Ma Thiên cùng với thiên ma binh trùng trùng điệp điệp, từng đoàn, từng lớp hiện xuống, tất cả chư thiên, Phạm thiên đều bay xa lánh mặt, vua trời Sakka bay thật xa đứng nhìn, Long vương Mahākāla chạy về long cung, vị trời Ðại Phạm thiên trở về cõi trời sắc giới, chư thiên, chư Phạm thiên đều bay về chỗ ở của mình, thế là chẳng còn một chư thiên, Phạm thiên nào ở lại, chỉ còn một mình Ngài đang điềm nhiên ngự trên ngôi bồ đoàn.
Ác Ma Thiên lớn tiếng hét vang, truyền lịnh cho bộ hạ rằng:
– “Này hỡi chúng thiên binh, thiên tướng, Sa môn Gotama có oai lực phi thường, không có ai dám sánh, các ngươi chớ khá xem thường, hãy chờ lệnh của ta. Bây giờ, chính tự tay ta quyết chiến với Sa môn Gotama”.
Ðức Bồ Tát nhìn chung quanh không một chư thiên, Phạm thiên nào còn ở lại, Ngài chỉ thấy Ác Ma Thiên cỡi voi Girimekhala, có cả ngàn cánh tay cầm đủ tất cả khí giới cùng với thiên ma binh, thiên ma tướng hùng hậu với tất cả các loại khí giới cực kỳ nguy hiểm, bao vây quanh Ngài.
Ngài nghĩ rằng: “Ác Ma Thiên đem chúng thiên ma hùng hậu với mục đích mong chiến thắng chỉ một mình ta, tại nơi đây ta không có cha mẹ, anh em bà con thân quyến nào cả, ta chỉ có 30 pháp hạnh ba la mật xem như là những bộ hạ thân tín, mà ta đã tạo nên và nuôi dưỡng trưởng thành suốt thời gian lâu dài trải qua vô số kiếp. Bây giờ ta phải sử dụng đến những pháp hạnh ba la mật này như là những đội quân thiện chiến bảo vệ ta, chúng cũng là tấm giáp an toàn chống đỡ lại phép thuật của Ác Ma Thiên”. Ngài quán tưởng đến 30 pháp hạnh ba la mật xong, Ngài vẫn điềm tỉnh ngự trên ngôi bồ đoàn quý báu.
CUỘC CHIẾN CỦA ÁC MA THIÊN
Ðầu tiên Ác Ma Thiên dùng phép thuật cuồng phong bão tố, với ý nghĩ làm cho Sa môn Gotama sợ hãi rời bỏ ngôi bồ đoàn mà chạy trốn. Y liền hoá phép nổi lên trận cuồng phong bão tố khủng khiếp, sức gió mạnh mẽ phát xuất từ mọi hướng Ðông, Tây, Nam, Bắc. Trận cuồng phong bão tố này không những bứng trốc cả rừng cây đại thọ, tiêu hủy xóm làng, mà còn có khả năng bạt đi cả bảy quả núi dài 3 do tuần.
Do oai lực ba la mật của Ðức Bồ Tát, trận cuồng phong bão tố kia, khi đến gần Ngài liền tan biến mất, không thể làm cho chéo y của Ngài lay động.
Thật là một điều phi thường! Ban đầu Ác Ma Thiên vô cùng ngạc nhiên, sau y đùng đùng nổi giận, tức khắc sử dụng phép thuật thứ nhì đó là nước lụt để làm cho Ðức Bồ Tát chết đuối. Y hoá phép một trận mưa lớn như thác đổ, cuồn cuộn tràn đầy hồ ao, sông núi, dâng ngập mặt đất, dâng cao đến ngọn cây, rồi dâng đến đỉnh núi để ngập chìm Ngài.
Do oai lực ba la mật của Ðức Bồ Tát, trận lụt lớn kia bỗng nhiên hóa ra vô hiệu, không còn một hạt nước mưa nào có thể làm thấm ướt được chéo y của Ngài. Y càng thêm tức giạän liền sử dụng loại phép thuật thứ ba đó là mưa đá than hồng để thiêu đốt Ðức Bồ Tát. Y hoá phép làm một trận mưa đá than hồng cháy đỏ hừng hực liên miên, bất tận rơi trút xuống kim thân Ngài.
Do oai lực ba la mật của Ðức Bồ Tát, những cục đá than hồng kia lại biến thành những đoá hoa trời màu sắc xinh đẹp nhẹ nhàng rơi xuống xung quanh Ngài.
Y vô cùng tức tối, liền sử dụng loại phép thuật thứ tư đó là trận mưa vũ khí để giết chết Ðức Bồ Tát. Y hoá phép những loại vũ khí sắc bén như gươm, giáo, răng cưa, móc nhọn… tua tủa rơi từ hư không đâm xuống chỗ Ngài.
Do oai lực ba la mật của Ðức Bồ Tát, những loại vũ khí sắc bén kia lại biến thành những đoá hoa trời, những báu vật rơi rải rác xung quanh Ngài.
Y giận lồng lộn lên, ngay tức khắc sử dụng loại phép thuật thứ năm đó là trận mưa lửa than để thiêu đốt Ðức Bồ Tát. Y hoá phép trận mưa lửa than đỏ rực cả vùng trời phủ xuống kim thân Ngài.
Do oai lực ba la mật của Ðức Bồ Tát, trận mưa lửa than kia lại biến thành chùm pháo hoa cõi trời đẹp mắt rơi xuống xung quanh Ngài.
Y bây giờ giận dữ điên cuồng, sử dụng loại phép thuật thứ sáu đó là trận mưa tro nóng để thiêu rụi Ðức Bồ Tát. Y hoá phép trận mưa tro nóng rơi xuống chỗ Ngài.
Do oai lực ba la mật của Ðức Bồ Tát, trận mưa tro nóng kia lại biến thành bột trầm cõi trời thơm ngát rơi rải rác xuống xung quanh Ngài.
Ác Ma Thiên sử dụng loại phép thuật thứ bảy đó là vũ khí mưa cát mịn có độ nóng kinh khủng để thiêu hủy Ðức Bồ Tát. Y hoá phép trận mưa cát mịn rơi xuống chỗ Ngài.
Do oai lực ba la mật của Ðức Bồ Tát, trận mưa cát mịn kia lại biến thành vật thơm cõi trời ngào ngạt rơi rải rác xung quanh Ngài.
Ác Ma Thiên sử dụng loại phép thuật thứ tám đó là trận mưa bùn có độ nóng khủng khiếp để thiêu hoại Ðức Bồ Tát. Y hoá phép trận mưa bùn rơi xuống chỗ Ngài.
Do oai lực ba la mật của Ðức Bồ Tát, trận mưa bùn kia lại biến thành vật thoa trời mát dịu rơi rải rác xuống xung quanh Ngài.
Ác Ma Thiên tức giận điên cuồng, khi dùng các loại phép thuật giết hại mà không có hiệu quả; nên y thay đổi chiến thuật sử dụng loại phép thuật thứ chín đó là không gian tối tăm như mực để làm cho Ðức Bồ Tát kinh sợ bỏ chạy, y hoá phép làm cho không gian tối đen mù mịt.
Do oai lực ba la mật từ kim thân Ngài phát ra hào quang tỏa rộng như vầng thái dương sáng tỏ, làm tan biến bóng tối đen như mực kia ngay tức khắc.
Thế là Ác Ma Thiên đã sử dụng hết chín loại phép thuật lợi hại: cuồng phong, bão tố, nước ngập lụt, mưa đá than hồng, mưa vũ khí, mưa lửa than, mưa tro nóng, mưa cát nóng, mưa bùn nóng và không gian tối mịt… nhưng Ðức Bồ Tát vẫn an nhiên tự tại ngự trên ngôi bồ đoàn quý báu, bất khả xâm phạm. Bị thất bại chua cay, biết là chẳng thể nào làm cho Ðức Bồ Tát từ bỏ ngôi bồ đoàn, nhưng Ác Ma Thiên vẫn tỏ ra oai vệ dõng dạc hét lớn truyền lệnh chúng thiên ma rằng:
– Các ngươi hãy tấn công vào bắt Sa môn Gotama, hãy đánh đuổi Sa môn Gotama ra khỏi ngôi bồ đoàn kia.
Ác Ma Thiên la hét thật lớn, nhưng chẳng có ma quân, ma tướng nào dám cả gan xông đến gần, bởi do oai lực ba la mật của Ðức Bồ Tát.
Ác Ma Thiên vẫn chưa chịu thất bại, ngồi trên lưng voi Girimekhala đưa tay chỉ vào Ðức Bồ Tát nói như ra lệnh:
– Này Sa môn Gotama, ông hãy mau mau rời khỏi chỗ ấy, vì ngôi bồ đoàn ấy là của ta!
Ðức Bồ Tát từ tốn đáp:
– Này Ác Ma Thiên, ngôi bồ đoàn quý báu này phát sanh do phước báu của 30 pháp ba la mật, năm hạnh đại thí, ba pháp hành mà Như Lai đã tạo từ vô số kiếp. Như vậy ngôi bồ đoàn này thuộc về của Như Lai, không phải của ngươi. Khi chưa chứng đắc thành bậc Chánh Ðẳng Giác, thì Như Lai vẫn chưa thể rời khỏi ngôi bồ đoàn quý báu này.
VŨ KHÍ CUỐI CÙNG
Ðức Bồ Tát nói như vậy, Ác Ma Thiên vô cùng giận dữ đến phát điên, liền sử dụng phép thuật vũ khí vòng sắt cực kỳ nguy hiểm, quyết sát hại Ðức Bồ Tát.
Ðây là một đòn trí mạng cuối cùng. Nếu chiếc vòng sắt ấy ném xuống đất, thì mặt đất bị thiêu hủy suốt 12 năm không có cỏ cây nào mọc được. Nếu chiếc vòng sắt ấy ném lên hư không, thì suốt 12 năm trường không có một giọt mưa nào rơi xuống. Nếu chiếc vòng ấy ném vào núi Sineru (Tu di sơn), thì núi ấy bị cắt làm đôi.
Với ý chí quyết thắng Ðức Bồ Tát, với ác tâm sát hại chúng sinh, Ác Ma Thiên ném vũ khí vòng sắt lên hư không phát ra tiếng sấm sét vang trời, đồng thời ra lệnh thiên ma binh, thiên ma tướng xô đẩy những quả núi lớn xuống nơi Ðức Bồ Tát đang ngự trên bồ đoàn.
Ác Ma Thiên nghĩ là mình sẽ chiến thắng, nếu Sa môn Gotama không từ bỏ ngôi bồ đoàn kia, thì thân xác ông ta sẽ bị nghiền nát.
Tất cả chư thiên, chư Phạm thiên từ xa khi nhìn thấy phép thuật vũ khí vòng sắt của Ác Ma Thiên được ném ra, một số vô cùng lo ngại cho sanh mạng của Ðức Bồ Tát, một số khác tin rằng do oai lực 30 pháp hạnh ba la mật tròn đủ của Ngài, sắp chứng đắc thành bậc Chánh Ðẳng Giác, thì không có một loại phép thuật vũ khí nguy hiểm nào có thể sát hại được Ngài.
Quả thật như thế, do oai lực ba la mật của Ðức Bồ Tát, vũ khí vòng sắt cực kỳ nguy hiểm kia đã biến thành cuộn dây chùi chân nhẹ nhàng rơi xuống bên cạnh ngôi bồ đoàn, còn tất cả quả núi lớn kia đã biến thành những đóa hoa cõi trời xinh đẹp rơi rải rác xung quanh ngôi bồ đoàn quý báu nơi Ngài đang ngự.
CUỘC ÐẤU TRÍ CUỐI CÙNG
Khi ấy, Ngài suy sét rằng: “Chư Bồ Tát ở quá khứ khi đã hành tròn đủ 30 pháp ba la mật, thì ngôi bồ đoàn quý báu phát sanh đối với họ để chứng đắc thành bậc Chánh Ðẳng Giác, ta cũng là Bồ Tát đã hành tròn đủ 30 pháp ba la mật. Như vậy, ngôi bồ đoàn quý báu này thuộc về của ta hôm nay, để chứng đắc thành bậc Chánh Ðẳng Giác”.
Suy xét xong, Ngài bèn hỏi Ác Ma Thiên.
– Này Ác Ma Thiên, ngôi bồ đoàn quý báu phát sanh do sự tròn đủ 30 pháp ba la mật của Như Lai; ngươi có từng tạo tròn đủ 30 pháp hạnh ba la mật đâu, mà ngươi dám nói ngôi bồ đoàn này là của ngươi; vậy ngươi có gì làm bằng cớ?
Ác Ma Thiên đắc chí chỉ vào chúng thiên ma của mình tuyên bố:
– Tất cả thiên binh, thiên tướng làm chứng ngôi bồ đoàn kia là của ta.
Chúng thiên ma đồng thanh đáp:
– Ðúng thế! Ngôi bồ đoàn kia là của Ðức vua chúng tôi.
Ác Ma Thiên tưởng mình đã thắng thế, bèn hỏi Ðức Bồ Tát rằng:
– Thưa Sa môn Gotama, Ngài tuyên bố ngôi bồ đoàn quý báu ấy thuộc về của Ngài, vậy ai làm chứng cớ cho Ngài?
Ðức Bồ Tát nhìn xung quanh đều không có một chư thiên, Phạm thiên nào, Ngài suy tưởng: “Ta đã từng tạo 30 pháp ba la mật trải nhiều đời nhiều kiếp trong quá khứ, không nói kiếp trước xa xôi, chỉ nói đến kiếp gần đây, khi sanh làm thái tử Vessantara hành đại thí ba la mật: bố thí voi quý, của cải, vợ con…, mặt đất không có tâm thức này cũng đã từng 7 lần rung chuyển”.
Ðức Bồ Tát bèn đưa bàn tay phải ra dùng ngón trỏ chỉ xuống mặt đất tuyên bố bằng lời chân thật rằng:
“Trong tiền kiếp, khi tôi là thái tử Vessantara, tôi đã từng làm đại thí ba la mật 7 lần. Bây giờ, tại nơi đây không có chúng sinh có tri giác nào đứng ra làm chứng cho tôi, chỉ có mặt đất, mặt đất không có tâm thức này có thể làm chứng cho tôi được không?”.
Thật phi thường thay! lời chân thật của Ðức Bồ Tát vừa chấm dứt, lập tức mặt đất chuyển mình, rung động, phát ra những tiếng sấm sét long trời lỡ đất, Ác Ma Thiên kinh hoàng khiếp đảm giục voi bỏ chạy trở về cõi Tha hoá tự tại thiên, còn đám ma binh hỗn quân hỗn quan vô cùng khiếp đảm bỏ mặt nạ, vũ khí, hốt hoảng chạy tán loạn để thoát thân theo chủ soái của mình.
ÐỨC BỒ TÁT TOÀN THẮNG ÁC MA THIÊN
Ðức Bồ Tát ngự trên bồ đoàn quý báu dưới cội cây Assattha đã toàn thắng Ác Ma Thiên vừa đúng lúc mặt trời sắp lặn hướng Tây, mặt trăng ló dạng hướng Ðông. Khi ấy 10 ngàn thế giới chư thiên cõi trời Dục giới, chư Phạm thiên cõi trời sắc giới, Long vương dưới thuỷ cung… toàn thể chư thiên, Phạm thiên vui mừng reo hò vang dội khắp các từng trời, tán dương ca tụng oai lực ba la mật của Ðức Bồ Tát rằng:
Ðức Bồ Tát Siddhattha đã toàn thắng rồi!
Ác Ma Thiên đã hoàn toàn thất bại rồi!
Do đó, ngôi bồ đoàn quý báu này gọi là “Aparājitapallanka”: ngôi bồ đoàn nơi toàn thắng Ác Ma Thiên.
Chư thiên, chư Phạm thiên đem những đóa hoa trời xinh đẹp, hương thơm đến cúng dường, tán dương ca tụng oai lực ba la mật của Ngài.