Đến Kosambī, Đức Phật ghé thăm khu vườn rừng Ghositārāma, khu vườn rừng Kukkuṭārāma, sau đó thì ngài sang ngụ tại lâm viên Pāvārikārāma. Nơi nào cũng trên năm bảy trăm vị tỳ khưu, riêng Pāvārikārāma thì khoảng chừng vài trăm. Các vị trưởng lão niên cao lạp lớn, hiện giờ đang hoằng pháp tại Kosala, Bārāṇasī, Rājagaha, Vesāli, Malla, Koliyā hoặc Kapilavatthu nên chư tăng tại Kosambī này còn thiếu sự dẫn dắt tu tập, cần phải đặc biệt quan tâm nhiều hơn.
Sau một thời gian giáo giới tại hai trú xứ kia, Đức Phật an cư tại vườn rừng Ghositārāma.
Dịp này, ông Sumana, là chủ vườn hoa nổi tiếng Kosambī có cơ hội kiếm tiền. Vì bao nhiêu hoa, bao nhiêu tràng hoa cũng không đủ cung cấp cho ba nhà triệu phú tiền rừng bạc biển nầy để họ cung đón Đức Phật. Nhưng hôm nay, bỗng dưng ông Sumana chợt đăm chiêu, tư lự. Rồi để mặc công việc hái hoa, xâu tràng hoa cho gia nhân, ông tức tốc lên ngựa lần lượt đến gặp ba nhà triệu phú, thưa rằng:
– Xin cho tôi được cung thỉnh Đức Phật và Tăng chúng chúng chừng mươi vị để cho tôi được dịp cúng dường một lần trong đời.
Cả ba vị phú hộ đồng mỉm cười:
– Tại sao ông lại khởi tâm như thế, này Sumana?
– Thưa, tấm gương bố thí, cúng dường của ba ngài phú hộ như ba ngôi sao tỏ rạng kinh thành Kosambī. Hôm nay, nó lóe sáng lên trong cái tâm hồn tối tăm của tôi. Vậy xin ba ngài gia ân cho kẻ thấp hèn này được như nguyện.
Động lòng bi mẫn, cả ba vị triệu phú đến vườn rừng Ghositārāma thưa bạch với Đức Phật thỉnh nguyện của lão trồng hoa, ngài im lặng nhận lời.
Vô cùng sung sướng, ông Sumana trở về nhà, tất bật công việc để ngày hôm sau cung đón đức Thế Tôn.
Vốn là nhà trồng hoa nên ông muốn bao nhiêu hoa đẹp, hoa quý mang ra chưng bày hết. Đồng thời, chẳng thèm tính tiền tính bạc, ông sai gia nhân đi mua sắm thức ngon, vật lạ, thượng vị loại cứng, loại mềm để đặt bát. Vườn nhà trong ngoài của ông giờ trông như khuôn viên của cõi trời, bây giờ được sắp đặt thêm các chỗ ngồi sang trọng, chỗ đi lót thảm quý, những chậu những ghè đựng nước rửa chân, rửa tay có khăn thơm.
Sáng sớm, mọi công việc đã xong, ông xoa tay nở nụ cười hoan hỷ, mãn nguyện.
Trong lúc ấy thì một cỗ xe ngựa quen thuộc từ triều đình đức vua Udena dừng lại ở đầu ngõ. Cô thị nữ sang trọng và quý phái của hoàng hậu Sāmāvatī bước vào với cái lưng hơi gù, với cái giỏ xách tay.
– Có việc gì mà trang hoàng ngôi nhà như cõi trời thế, ông già Sumana?
Ông Sumana hớn hở kể lại mục đích công việc của mình rồi tiếp lời:
– Vậy thì việc mua hoa hằng ngày xin quý nương hoãn lại cho một chút được không? Bao nhiêu hoa tôi đem chưng cả rồi. Một đời, một lần được dịp cúng dường Đức Phật mà! Chắc hoàng hậu thánh đức và nhân hậu của chúng ta cũng thông cảm cho thôi!
Nghe chuyện cúng dường Đức Phật, tâm cô thị nữ Khujjuttarā chợt phát sanh niềm hân hoan kỳ lạ. Một cảm giác phơi phới, lâng lâng khó tả. Cô mỉm cười, dịu dàng đáp:
– Được, không sao! Hơn thế nữa, dù có mang về cung hoa héo, hoa tàn gì chắc hoàng hậu cũng hoan hỷ cả, tại sao ông Sumana biết không?
Rồi cô kể chuyện:
– Hoàng hậu Sāmāvatī là đệ tử của Đức Thế Tôn. Năm ngoái, khi đức ngài an cư mùa mưa ở đây, hoàng hậu đã đến nghe pháp, cúng dường. Bà còn hiến cúng cả khu rừng trầm hương cho Ni chúng nữa đó. Hôm ấy, bà đang mang thai, Đức Phật có chú nguyện cho trẻ sau này trở thành một hoàng tử tốt. Gần một năm trôi qua, khi sinh đứa trẻ mẹ tròn con vuông, sáng sớm nào, bà cũng hướng vọng về miền Tây Bắc để đảnh lễ đức Tôn Sư. Ôi! Chú hoàng tử nhỏ kháu khỉnh và dễ thương lắm đấy.
Ông Sumana thốt lên:
– Ôi! Lành thay! Quý hóa quá!
Cô thị nữ Khujjuttarā chợt cất giọng buồn buồn:
– Nhưng cũng một năm nay, hoàng hậu của chúng ta không được vui. Tuy nhiên, đức Phật năm nay mà an cư ở đây là tốt rồi!
Ông già Sumana dường như cũng biết chuyện:
– Cái bà thứ hậu Māgaṇḍiyā lấn quyền à?
– Cả nước này ai cũng biết! Nó đẹp quá, kiêu sa quá, rực rỡ quá nên đức vua mê mẩn. Nó là dạ-xoa chứ không phải người! Cái con quỷ cái mà năm kia, Đức Phật đã từng chê là “không dám sờ đụng đến, dù là sờ đụng bằng chân” nổi tiếng cả kinh thành ấy mà!
– Ừ, tôi cũng có nghe chuyện ấy.
Chợt cô Khujjuttarā như sực tỉnh, cất giọng mau mắn nói:
– Ôi! Tôi đã sa đà lắm chuyện. Đức Thế Tôn lúc nào ngài ngự đến? Xem tôi có phụ giúp được công việc gì không nào? Chuyện mua hoa tính sau. Tôi cũng muốn ở lại nghinh đón Đức Thế Tôn và còn muốn nghe pháp nữa!
Thế rồi, đúng giờ, Đức Phật cùng mười vị tỳ khưu bộ hành đến nhà người trồng hoa. Ông bà Sumana, cô thị nữ Khujjuttarā và một số gia nhân trân trọng làm bổn phận của mình. Đức Thế Tôn và chư sư độ thực tại chỗ. Cuối buổi ngọ trai, Đức Phật chú nguyện phúc lành cho người đã khuất và kẻ hiện tiền đồng lợi lạc, an vui.
Sau đó, Đức Phật quán căn cơ, ban bố đến cho gia chủ một thời pháp nói về phước báu của bố thí, cúng dường. Đức Phật cũng nhấn mạnh về đức tin chân chính, trong sạch là như thế nào? Ngài cũng giảng sơ qua nhưng rõ ràng về bốn hạng người mắt sáng, mắt mù trên thế gian:
“Người mắt sáng, ở chỗ sáng tìm về chỗ sáng.
Người mắt sáng, ở chỗ sáng tìm về chỗ tối.
Người mắt mù, ở chỗ tối tìm về chỗ sáng.
Người mắt mù, ở chỗ tối tìm về chỗ tối”
Đến ngang đây, Đức Thế Tôn chợt hỏi:
– Vậy ông là hạng người nào trong bốn hạng người ấy, này người trồng hoa?
– Dạ thưa! Con từ chỗ tối tìm về chỗ sáng!
– Đúng vậy! Nhưng ông lấy cái gì để biết mà từ chỗ tối tìm về chỗ sáng, này Sumana?
Thấy ông già lúng túng, cô thị nữ Khujjuttarā lưng gù đứng dậy:
– Bạch Đức Tôn Sư! Có phải dùng trí đúng đắn, trí chân chính để thấy biết cái đúng, cái sai, cái lành tốt, cái xấu ác không ạ?
Đức Phật nhè nhẹ gật đầu, sau đó, ngài giảng thêm, phân tích cho mọi người rõ những cái thấy biết xấu quấy, sai trái, tức là tà kiến, không nên theo. Và những cái thấy biết đúng đắn, chân chính nên thọ trì, nên thực hành là như thế nào!
Cuối thời pháp, phát sinh điều bất ngờ nhất là cô thị nữ Khujjuttarā lưng gù đắc quả thánh Nhập Lưu.
Cảm xúc tâm linh tuôn tràn, cô lặng lẽ quỳ xuống bên chân Đức Đạo Sư, thành kính tri ân đảnh lễ Ngài mà không nói được nên lời.
Đức Phật biết rõ chuyện gì xảy ra, Ngài quay qua nói với cô gái:
– Con đi mua hoa này mà lại được hoa khác, có phải vậy không, này Khujjuttarā?
– Tâu, vâng, bạch Đức Thế Tôn!
– Toàn bộ buổi pháp thoại hôm nay, con có thể ghi nhớ và có khả năng lặp lại y hệt như vậy được không, này Khujjuttarā?
– Tâu, vâng, bạch Đức Thế Tôn! Đệ tử có thể làm được như vậy!
– Ừ! Để lợi ích cho nhiều người, từ rày về sau, con về xin với hoàng hậu Sāmāvatī được đi nghe pháp trong thời gian Như Lai an cư ở đây, được không, này Khujjuttarā?
– Tâu, vâng, bạch Đức Tôn Sư! Hoàng hậu chắc sẽ hoan hỷ về điều ấy lắm.
Lúc tiễn chân Đức Phật và chư Tăng về rồi, cô thị nữ lưng gù lấy tám đồng tiền vàng mua hoa rồi ra xe trở về hoàng cung.
Thấy một giỏ hoa đẹp và nhiều hơn mọi bữa, hoàng hậu Sāmāvatī ngạc nhiên:
– Sao hoa hôm nay lại nhiều vậy, Khujjuttarā? Ngươi bỏ thêm tiền túi à?
Cô thị nữ thú tội:
– Không phải vậy! Bữa nào cũng tám đồng tiền vàng cả, nhưng con thường ăn bớt hết một nửa, chỉ mua bốn đồng mà thôi!
Bà hoàng hậu hiền từ nói:
– Thế tại sao hôm nay ngươi lại không khởi tâm cắt xén, ăn bớt, này Khujjuttarā?
– Do hôm nay con đã được nghe pháp từ đức Thế Tôn nên con sẽ không còn trộm cắp, cắt xén, ăn bớt xấu xa như trước đây nữa!
– Ồ! Quý hóa quá! Vậy ngươi đã nghe được pháp gì kỳ diệu mà có thể thay tâm đổi tánh tuyệt vời như thế hở Khujjuttarā?
Cô thị nữ cất giọng bí hiểm:
– Pháp ấy nó trong và nó ngọt như nước suối tận nguồn cao. Hôm nay con đã uống được vài giọt. Cõi nhân sinh này không có loại nước ấy đâu, hoàng hậu quý kính ơi!
– Thế ngươi thuyết lại cho ta uống với?
– Pháp ấy không dễ thuyết. Thứ nhất là phải biết kính trọng pháp, thứ hai là phải biết kính trọng người thuyết, thứ ba là người thuyết và người nghe phải dọn mình cho sạch sẽ, thanh tịnh!
Hoàng hậu Sāmāvatī do khát khao giáo pháp nên chẳng nệ hà gì, làm theo tất thảy mọi yêu cầu nghiêm túc của cô thị nữ lưng gù. Mọi người còn chưng hoa và xông hương chiên đàn nên cả không gian chợt trở nên trong lành và thơm ngát.
Vậy là buổi chiều, sau khi ai cũng tắm rửa sạch sẽ, cô thị nữ ngồi trên pháp tọa cao, giảng nói lại toàn bộ buổi pháp thoại buổi sáng của đức Thế Tôn cho hội chúng, gồm có hoàng hậu Sāmāvatī và một số cung nga thể nữ nghe!
Cô thị nữ Khujjuttarā lưng gù đã tỏ ra bản lãnh thiên tài của một vị pháp sư, không những ý nghĩa khúc chiết, mạch lạc mà giọng nói còn trầm bổng, du dương như thu nhiếp hồn người. Và cũng kỳ diệu thay! Đức Phật dẫu ở xa, nhưng ngài đã hướng tâm nghe được và ngài còn biết khá nhiều cung nga, thể nữ đã được uống giọt nước bất tử!
*Hoàng hậu Sāmāvatī là ai?
Sāmāvatī là một trong ba vị phu nhân của đức vua Udena. Bà vốn là con gái của triệu phú Bhaddavatiya tại Bhaddavatī, là bạn thân của triệu phú Ghosaka ở thành phố Kosambī. Khi một bệnh dịch ghê sợ hoàng hành tràn qua thị trấn Bhaddavatī, tài sản, nhà cửa bị phá tán tan hoang, cô và cha mẹ cô đã trốn đến Kosambī, dựng tạm một cái lều rách nát ở ngoại thành để kiếm xin ăn qua bữa.
Ông Bhaddavatiya thều thào nói với con gái:
– Triệu phú Ghosaka ở kinh thành này là bạn thân của ta, nhưng ta không thể nào muối mặt đến nhờ cậy ông ta trong cái thân tàn ma dại, không ra người, không ra ngợm. Tuy nhiên, ông ta vốn là người giàu lòng từ thiện, với hoàn cảnh các vùng phụ cận bị tai ương dịch bệnh, chắc chắn ông ta sẽ mở các trại tế bần để giúp cơm, đỡ cháo cho mọi người. Vậy con hãy tìm đến đấy để xin ăn qua bữa…
Nghỉ hơi một chút, ông nói tiếp:
– Cả cha cả mẹ đều bị nhiễm bệnh, chắc không còn sống được mấy hơi. Dù có chết, con cũng giấu luôn tung tích đừng cho ông triệu phú biết!
Vâng lời cha, cô gái đi lần theo chân những người xin ăn, quả nhiên, có một trại tế bần ở cửa trang viên của ông triệu phú Ghosaka. Vào ngày đầu tiên, cô Sāmāvatī xin ba phần ăn, ngày thứ hai, xin hai phần ăn, ngày thứ ba chỉ xin một phần ăn. Vì cha cô bị chết trong lần ăn đầu tiên, mẹ cô bị chết trong bữa cơm ngày thứ hai. Khi vào ngày thứ ba, cô chỉ xin có một phần ăn.
Ông Mitta, quản gia của ông triệu phú, là người trông coi việc phân phát thực phẩm, đã để ý đến cô gái rất đẹp, rất lịch sự, rất nho nhã qua hai ngày xin ăn; đã chọc ghẹo cô và nói như sau:
– Hôm nay chắc cô biết rõ khả năng của cái bụng của mình rồi nên chỉ xin nhận một phần vật thực!?
– Ý ông là thế nào, thưa ông?
Ông quản gia cười:
– Không phải lần trước bụng cô ăn ba phần, sau đó là hai phần, bây giờ là một phần đó sao?
– Thưa ông! Lần thứ nhất, tôi còn cha, còn mẹ. Lần thứ hai, cha tôi mất. Hôm nay cả cha và mẹ tôi đều mất, chỉ còn mình tôi, xin ông hiểu sự thật là như vậy!
Thấy cô gái xinh đẹp ăn nói đâu ra đấy, tỏ ra con nhà có giáo dục, ông quản gia thương hại nhận cô làm con nuôi. Ông còn chịu khó theo chân cô gái ra ngoại ô, sai người làm quấn thân cha mẹ cô bằng vải trắng tẩm dầu thơm, làm một giàn cây rồi thiêu xác họ một cách rất chu đáo.
Một hôm, khi đi đến nhà chẩn bần, cô trông thấy những người nghèo khổ chen lấn nhau, dẫm đạp nhau, tranh nhau để nhận vật thực đã xảy ra một cuộc náo động ầm ĩ, hỗn loạn. Buổi chiều vắng người, cô xin phép cha nuôi cùng với một số gia nhân mang theo vật dụng cần thiết để làm một hàng rào tuy thô sơ nhưng chắc chắn, có cửa vào, có cửa ra và lối đi chỉ đi được một người khi vào nhận vật thực, xong, đi trở ra cửa khác. Với cách thức này của cô, tình trạng ồn ào, hỗn loạn được chấm dứt.
Hôm kia, triệu phú Ghosaka đang nghỉ trên lầu cao, ông chợt ngạc nhiên khi không còn nghe tiếng cãi vã, chen lấn ồn ào hỗn loạn như mọi bữa tại trại chẩn bần, bèn tìm hiểu nguyên nhân, thì phát hiện cô gái nghèo đã làm được việc đó. Ông bảo viên quản gia Mitta cho gọi cô gái lên để hỏi chuyện. Bây giờ, cô mới tình thật kể rõ đầu đuôi tự sự. Cám cảnh thương tình quá, ông triệu phú đã quát lên:
– Tự ái hão! Này ông bạn ngu si! Sĩ diện hão! Này ông bạn ngốc nghếch! Bạn bè thì phải có nghĩa vụ khi tối lửa tắt đèn chứ? Phải có nghĩa vụ khi sa cơ lỡ vận chứ! Ông làm vậy thì chẳng coi tôi ra cái gì rồi!
La quát vậy là vì thương. La quát vậy là vì quá xúc động. Sau đó, như để hàn gắn vết thương lòng, ông nhận cô gái làm con mình và đối xử hoàn toàn giống như con gái ruột để an ủi hương linh ông bạn nơi chín suối.
Cô gái vốn có tên Sāmā, nhưng sau khi cô cho dựng hàng rào (vati) xung quanh nhà chẩn bần nên từ nay được gọi là Sāmāvatī.
Vào một ngày lễ hội, đức vua Udena nhìn thấy Sāmāvatī với sắc đẹp mỹ lệ, với dáng dấp quý phái, thanh cao cùng với thị nữ đang đi đến dòng sông để tắm, ông cảm nghe trái tim rung động. Cho người tìm hiểu, mới biết cô ta là tiểu thư con gái của ông triệu phú Ghosaka nên đức vua cho sứ giả đến dạm hỏi để rước nàng về hoàng cung.
Triệu phú Ghosaka trong bụng không bằng lòng nhưng ngoài mặt thì nói với sứ giả:
– Thật là vinh hạnh xiết bao cho con gái của ngu dân. Nhưng xin ngài về thưa lại với đại vương rằng, là con gái tôi còn nhỏ, nó lại không biết về lễ nghi của cung đình, để tôi giáo huấn nó một thời gian đã!
Khi sứ giả ra về rồi, ông hét toáng lên:
– Suốt năm, suốt tháng chỉ biết uống rượu, một đám mỹ nữ, săn bắt giết thú, sống đời hoang dâm vô độ thì đâu có xứng đáng với con gái của ta?
Nói thì nói cứng vậy, nhưng biết làm sao, lệnh vua là lệnh trời, không nghe theo thì phải chịu án tù đày, treo cổ! Lần thứ hai, sứ giả đến, ông triệu phú vẫn tìm ra cớ hoãn binh. Lần thứ ba, sứ giả đến cùng với hằng trăm quân cấm vệ, ra lệnh, nếu không tuân, trang viện sẽ bị niêm phong và ông triệu phú phải bị tống vào tù!
Đến lúc này thì cô Sāmāvatī phải lên tiếng để cứu cha:
– Nhà cửa không thể bị niêm phong được. Cha không thể vào ở tù được. Cha còn thì biết bao nhiêu người nghèo khổ được nhờ cậy. Hãy hy sinh con gái thôi, thưa cha!
Ông triệu phú Ghosaka chảy nước mắt:
– Ta chỉ sợ con khổ thôi! Con mà khổ thì ta làm sao mà nhìn mặt cha con dưới suối vàng, hở con gái yêu!
Vậy là không có lối thoát, triệu phú Ghosaka đành phải chấp thuận cho cô Sāmāvatī lên kiệu vàng vào hoàng cung, khi đi, cô chỉ xin mang theo cô thị nữ lưng gù tên là Khujjuttarā mà thôi. Được Sāmāvatī, đức vua Udena tức khắc phong cô làm hoàng hậu chỉ mấy ngày sau đó.
Cô thị nữ lưng gù Khujjuttarā là ai? Cô xuất thân như thế nào, tính hạnh ra sao mà được hoàng hậu quý mến đến vậy? Thật ra, cô ta xuất thân nghèo hèn, chỉ là một gia nô tầm thường, tài giỏi về nghề thuốc nên được ông triệu phú cho ở trong nhà với tư cách chỉ như là “một bác sĩ tại gia”. Nhưng nhờ miệng lưỡi mau mắn, thông minh, tháo vát, biết quan tâm đến người khác nên được lòng tất cả mọi người. Cô lại có kiến thức, sáng dạ, tiếp thu nhanh nên Sāmāvatī rất yêu mến, chỉ muốn gần bên để bầu bạn, tâm tình.
Thế là hôm đó, sau thời pháp của vị “nữ pháp sư” Khujjuttarā, thì gần như toàn bộ cung nga thể nữ của đức vua Udena trở thành con người mới. Ai cũng tỏ ra kính trọng cô gái người hầu của hoàng hậu Sāmāvatī. Vốn từ một thân phận thấp hèn nhất, bỗng dưng lại được các cung nga kiêu sa gọi bằng chị, tới lui, vào ra đều được mọi người quan tâm, ưu ái và đối xử rất mực lễ độ.
Hơn ai hết, hoàng hậu Sāmāvatī biết rõ rằng, giá trị tinh thần thiêng liêng nó nâng con người lên, và đó chính là sự thăng hoa tác phong và tư cách chứ không phải bởi quyền lực, địa vị, danh vọng hoặc ngọc vàng. Ôi! Bà xiết bao tôn kính Đức Đạo Sư, một hiện thân siêu việt, đã đem lại giá trị đích thực cho kiếp sống làm người. Cô thị nữ Khujjuttarā và cung nga thể nữ cũng nhận thức như thế. Ai cũng mong muốn thầm lặng trong tâm là được gặp mặt Đấng Cha Lành Thập Lực Tuệ, được cúng dường và nhất là được nghe pháp. Rồi ai cũng đến gặp Khujjuttarā nhờ bàn mưu, tính kế giúp họ.
Cô thị nữ Khujjuttarā thường được phép ra ngoài mua hoa, quan hộ thành cũng như quân canh đều đã quen mặt. Cô thấy cứ mỗi buổi sáng, đức Phật và Tăng chúng thường bộ hành con đường phía sau cung điện để qua nhà các vị đại phú hộ hoặc trì bình khất thực trong kinh thành; cô bèn nẩy ra một ý rồi bàn với mọi người.
– Cửa sổ tầng cao bên sau hậu cung hiện trổ ra con đường Đức Phật và chư Tăng thường đi qua. Vậy quý cô hãy khoét tường thành một lỗ tròn vừa đủ cái đầu và tay thò ra ngoài. Vậy thì bất cứ ai muốn chiêm ngưỡng kim thân của Đức Phật hoặc muốn cúng dường gì đến ngài và Tăng chúng cũng được hết!
– Chiêm ngưỡng ngài thì được, nhưng còn cúng dường thì chúng ta phải làm sao?
– Quý cung nương cứ đưa vàng bạc đây, tôi sẽ nhờ người mua vật phẩm cúng dường. Họ sẽ đích thân lo việc ấy như là đại diện cho quý cung nương, và chúng ta sẽ tính trả thù lao hậu hĩ cho họ.
Một cô nga hỏi:
– Thế mình không dâng cúng tận tay thì làm sao có phước được?
Cô thị nữ Khujjuttarā giải thích:
– Nơi sinh phước có ba: Thân, khẩu và ý. Nếu ta không thể hiện bằng thân và khẩu thì ta sẽ cúng dường bởi tâm ý cũng đã thành tựu phước rồi. Đừng lo, Đức Chánh Đẳng Giác biết rõ điều ấy và ngài sẽ chú nguyện tâm thành ấy cho chúng ta.
Thế rồi, công việc được tiến hành.
Hôm ấy, Đức Phật và Tăng chúng trên đường sang nhà ông triệu phú, lộ trình theo lối hậu cung thì gặp một số đông nam nữ giai cấp thượng lưu đặt vật phẩm cúng dường rất trang trọng, rất phải phép do họ đã được cô thị nữ Khujjuttarā đã ý tứ hướng dẫn. Trên lầu cao, những cung nga thể nữ thò đầu và tay ra ngoài với những cành hoa vẫy đưa qua đưa lại. Đức Phật dừng chân. Và như tâm ý cùng liên thông, chư Tăng cũng dừng lại và đều lặng lẽ quay mặt về phía họ để thọ nhận vật thực.
Đức Phật sử dụng thần thông, nói một câu pháp thoại “tùy hỷ” như rót vào tai họ và cho cả chư thiên, thọ thần quanh vùng đều được nghe:
– Cúng dường tâm ý là cách cúng dường của chư thiên. Với chính tâm, thành ý này, Như Lai chúc phúc cho quý cung nương sắc đẹp, sức khỏe, trường thọ, an vui và trí tuệ. Hãy duy trì đức tin với thiện pháp để bước đi an toàn nơi cõi trời và người!
Mấy trăm cung nga thể nữ xiết bao hoan hỷ. Thêm một lần nữa, có người đạt tâm bất thối. Riêng hoàng hậu Sāmāvatī mừng vui đến đẫm nước mắt.
Chỉ cúng dường được một hôm thì bị thứ hậu Māgaṇḍiyā tình cờ phát giác. Bà hỏi một cung nữ lý do những cái lỗ tròn trên lầu hậu cung. Cô ấy vô tình và vui thú tiết lộ.
– Chúng tôi chiêm bái và cúng dường Đức Phật và Tăng chúng qua cái lỗ tròn ấy.
Thứ hậu Māgaṇḍiyā mỉm cười như không có chuyện gì, vô sự bước đi nhưng trong lòng lại nghĩ: “Ta có mối thù ‘bất cộng đái thiên’ với ông Gotama, y đã từng sỉ nhục ta, phỉ báng ta một cách quá đáng. Đây quả là dịp để ta sẽ phục thù, rửa hận. Còn mấy trăm con tiện tì, a đầu này cùng a dua theo bà Sāmāvatī, ta cũng sẽ làm cho cả bọn chúng biết tay!”
Đến gặp đức vua Udena, bà thứ hậu Māgaṇḍiyā tìm cớ tâu rằng:
– Mấy trăm cung nữ của chánh hậu đang có âm mưu gì đó nên đã khoét những cái lỗ tròn sau vách lầu hậu cung. Một là muốn tư thông với bên ngoài, hai là có âm mưu bất chánh gì đó, đại vương phải để tâm một chút!
Đức vua mỉm cười:
– Hoàng hậu rất trang nghiêm, mẫu mực, đứng đắn nên những cung nữ ở đấy cũng học được một phần nào đức tánh tốt của bà ấy. Họ không làm gì đáng ngại đâu.
– Đại vương hãy quá bộ ngọc thể đến xem. Tiện thiếp không hề nói sai ngoa.
Đến lần thứ ba, chẳng đặng đừng, đức vua đích thân đến xem và thấy những cái lỗ khoét tròn.
Hoàng hậu Sāmāvatī tình thật kể lại đầu đuôi tự sự cho vua nghe rồi kết luận:
– Họ không dám bước ra ngoài theo điều lệ của hậu cung. Họ cũng có tâm muốn bố thí, cúng dường đến Đức Phật và Tăng chúng như tiện thiếp vậy. Kính xin bệ hạ cho họ một đặc ân, ấy là niềm vui tín ngưỡng thiêng liêng trong lòng họ!
Đức vua đáp:
– Hậu khéo nói quá! Ừ! Quả thật điều ấy thì trẫm cũng phải nên trân trọng.
Nghỉ hơi một lát, nhìn những cái lỗ trống hoác, đức vua chỉ tay nói:
– Nhưng gió bão, cáo, chồn, chim, chuột có thể từ chỗ ấy mà vào, sẽ bất ổn, bất tiện cho việc ăn ở ngủ nghỉ. Trẫm sẽ cho người thiết kế một loại cửa đặc biệt để lấp trống những cái lỗ ấy lại. Làm sao để cho cung nga thể nữ cũng đưa được tầm mắt ra bên ngoài mà còn ngăn được thú vật, gió dữ, gió lạnh, gió chướng nữa.
Thế là mấy ngày hôm sau, thợ thầy đặc biệt của hoàng gia đã lắp kín các lỗ trống bằng một loại cửa có tên gọi là “Khuddacchiddakavātapānāni
Thứ hậu Māgaṇḍiyā là ai mà lại thâm thù đức Phật đến như vậy?
Năm trước đây, cũng tại Kosambī, hôm kia, trời mây thưa, gió nhẹ có vẻ tạnh ráo, sáng sớm, Đức Phật lại ôm bát ra đi một mình. Ngài đi rất xa về phía Tây Bắc thuộc thượng nguồn sông Yamuna, đến vùng Kuru, thị trấn Kammāsadhamma, gần các ngôi đền thờ các vị thần của bà-la-môn giáo. Đức Phật tọa thiền suốt đêm tại một vòm cổng bằng đá, sáng ngày, ngài ôm bát theo con lộ chính trong thị trấn để khất thực. Trời mưa rất nhẹ, chỉ như sương mù lay bay, đường đất thấm nước, không có bụi, khí trời mát mẻ. Đây là vùng đất, là xứ sở của bà-la-môn giáo! Các vị sa-môn, chư tỳ khưu cho biết rằng, ở đây rất khó kiếm vật thực. Mặc dầu đời sống cư dân khá sung túc nhưng họ không đặt bát cho người khác tôn giáo! Tuy nhiên, nhờ tướng hảo quang minh, sự sáng chói từ hào quang lan tỏa nơi ngài hấp dẫn lôi cuốn mọi người nên vật thực ngài cũng có đủ!
Lựa tìm một cội cây tại ngã ba đường, Đức Phật xếp bốn tấm y hai lớp rồi ngồi độ thực. Dùng xong, ngài trú quang định để chờ đợi hai kẻ hữu duyên sẽ đắc quả Thánh Bất Lai Anāgāmī.
Thị trấn Kanumāsadamma có một bà-la-môn gia chủ hữu danh, đấy là ông bà Māgaṇḍi. Suốt đêm, ông ở trong đền để chăm lo việc tế thần lửa, trên đường về nhà, ông chợt thấy Đức Phật ngồi dưới cội cây! Sửng sốt, ông đứng lặng, ngắm nhìn mê mải! Ôi! Vị này là ai mà đẹp quá!? Cả thân thể sao mà tỏa sáng như châu ngọc! Từ vừng trán, khuôn mặt, cái mũi, cái miệng, chân mày, đôi mắt, vai, ngực, chân tay… cả những ngón tay… đều do thợ điêu khắc tuyệt hảo của đức thần Brāhmā! “ Chà! Ông tự nghĩ – Ta có cô con gái xinh đẹp tuyệt trần, nếu có được một chú rể đông sàng tướng hảo tuyệt mỹ như thế này thì mới thật là xứng đáng!” Nhà ông cũng ở gần đây nên ông hấp tấp đến báo cho bà hay: “Này bà, có một chàng trai tuyệt đẹp, đúng là quý nhân, quý tướng! Bà hãy mau đến gốc cây đầu đường kia mà xem! Ta đã chọn cho con gái rượu của chúng ta một tấm chồng đấy!”
Đức Phật biết chuyện gì xảy ra nên ngài bước xuống, để lại một dấu bàn chân rồi đi sang hướng khác.
Khi hai ông bà Māgaṇḍi dẫn cô gái Māgaṇḍiyā tìm đến thì không thấy đức Phật đâu mà chỉ thấy dấu bàn chân có cả ngàn căm bánh xe, trông rõ ràng như điêu khắc ở trên đất. Hai ông bà vốn có tài xem tướng, bà giỏi hơn ông, thấy dấu bàn chân lạ lùng nên đồng ngồi xuống, săm soi nhìn kỹ.
Bà nói:
– Không phải là dấu bàn chân của con người, ông mày ạ! Ông trông có lầm chăng? Đâu có phải của con người?
– Con người thật mà! Ông gật đầu chắc nịch – Ta thấy rõ là con người bằng xương bằng thịt thật mà!
– Thế thì lạ lùng quá! Dấu bàn chân này oai lực lắm!
Ông tròn mắt, gặng hỏi:
– Ma vương chăng?
– Nói bậy!
– Quỷ vương chăng?
– Càng nói bậy!
– A-tu-la vương chăng?
– Đừng có hàm hồ! Bà chau mày, nói như gắt – Dấu bàn chân này rất trung chính, chẳng có tà ma, quỷ quái nào ở đây cả!
– Vậy thì thọ thần, chư thiên gì ở đây rồi!
– Còn chưa đáng kể gì! Vị này còn cao sang, oai lực hơn nữa kìa!
– Đại phạm thiên chăng?
– Cái này thì tôi chịu! Bà lắc đầu – nhưng dấu bàn chân này phải là của một con người đã tận diệt mọi khát dục, khát vọng ở đời nên mới đạt được cái vẹn toàn và chí mỹ như vậy!
– Trời! Thế là không thể bắt người này làm chồng con gái cưng của chúng ta nữa hay sao?
Bà trầm ngâm một lúc, có lẽ suy nghĩ lung lắm, sau đó, bà thở dài, nói như hơi gió thoảng:
– Hỏng rồi ông mày ạ! Theo tôi được học thì dấu bàn chân có ngàn căm bánh xe như thế này, trong nhân tướng học, nói về đại quý nhân thì chỉ có hai người. Một là đức Chuyển luân Thánh vương, hai là Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Nếu là Chuyển Luân Thánh vương thì luôn có bảy cô tiên nữ diễm lệ theo hầu, con gái ta cũng không bén mảng tới được. Tuy nhiên, vì dấu bàn chân này quá thiêng liêng và trong sạch nên ta phải loại bỏ ông này ra. Vậy chỉ còn là dấu bàn chân của Đức Chánh Đẳng Giác thì con gái ta dẫu đẹp như chúa của tiên nữ, vị ấy cũng không thèm để dính một ngón chân đâu!
– Phải đấy, này hai ông bà Māgaṇḍi – Đức Phật đã đứng bên vệ đường, gần sát bên họ, cất giọng Phạm âm – Nhận xét như vậy là chính xác, là đúng đắn! Thuở ấy có ba cô tiên nữ thiên kiều bá mị, là con gái của Đại ma vương, chúa cõi trời Paranimmita-vasavattī nõn nà, lả lơi, gợi tình; đã đến quyến rũ Như Lai, mê hoặc Như Lai bằng thiên sắc, thiên âm, thiên hương… Phải biết rằng, thiên sắc ấy vi tế, thù thắng, mỹ diệu. Thiên âm ấy tế nhị, thù thắng, mỹ diệu. Thiên hương ấy tế nhị, thù thắng, mỹ diệu. Thế nhưng, một sát-na nhanh như ánh chớp, Như Lai cũng không để cho lục căn bị vướng vào đâu cả. Như Lai không hề động tâm! Huống hồ là cô gái đẹp của ông bà!
Rồi Đức Phật đọc lên câu kệ:
“- Đã nhận thấy sự rỗng không, bọt bèo, bất tịnh của ái dục, bất mãn và tham vọng, Như Lai không còn thích thú, đắm say trong dục lạc phù phiếm của ái tình nữa. Cái thân thể xú uế, ô trược ấy là cái gì? Như Lai không bao giờ muốn sờ chạm đến nó, dầu chỉ đụng bằng chân!”
Lạ lùng làm sao, đức Phật chỉ nói chừng ấy, xác chứng một sự thực mà ông bà Māgaṇḍi tức khắc, chứng quả Bất Lai; cả hai ông bà quỳ năm vóc sát đất, đảnh lễ Ngài với lòng tri ân vô hạn. Riêng cô gái Māgaṇḍiyā thì tức tưởi, khóc lóc bỏ chạy! Cô thấy mình bị sỉ nhục một cách đau đớn khi Đức Phật chê thân thể cô xú uế, ô trược… không muốn sờ chạm đến, dầu chỉ đụng bằng chân! Xấc xược thế là cùng! Vậy nên, bắt đầu từ đấy, cô cột oán kết với Đức Phật bằng một mối hận thù sâu sắc. Cô quyết tìm cơ hội báo thù.
Còn ông bà Māgaṇḍi, sau khi để lại toàn bộ gia sản cho người em trai là bà-la-môn Cūḷamāgaṇḍi, gửi gắm chăm sóc cô con gái, hai người tìm đến khu rừng lớn Bhesakaḷā xin xuất gia, trở thành tỳ khưu và tỳ khưu ni, không lâu sau họ đắc quả Arahán.
Riêng ông em trai Cūḷamāgaṇḍi, sau này đi đâu cũng nghe mọi người chế nhạo cháu ông, cô gái Māgaṇḍiyā, là cái cô mà Đức Phật không dám sờ đụng, dầu là sờ đụng bằng chân! Tức giận quá, tự ái quá, ông bèn mua sắm xiêm trang, châu báu rồi trang điểm cô ta đẹp như tiên nữ rồi đem dâng cho đức vua Udena, với lời dặn nhỏ: “ Sau này, khi đạt được địa vị, danh vọng, quyền lực thì tìm cách trả thù cho bằng được mối sỉ nhục của con đối với Sa môn Gotama đấy!”
Đức vua Udena vốn háo sắc, tuy nhiên, đúng là cô ta rất đẹp, bèn phong cho cô làm hoàng phi, sau đó là thứ hậu. Còn ông cậu, Bà la môn Cūḷamāgaṇḍi, do cô Māgaṇḍiyā năn nỉ với đức vua nên được phong làm quốc trượng!
Vậy, nguyên nhân mà thứ hậu Māgaṇḍiyā hận thù Đức Phật rồi hận thù lây lan sang chánh hậu Sāmāvatī là vì thế!
Hôm kia, thấy âm mưu tố cáo của mình bất thành, bà thứ hậu Māgaṇḍiyā tự nghĩ: “Đức vua dẫu sủng ái mình nhưng vẫn đang còn trọng vọng chánh hậu. Vậy chưa thể làm hại cả bè lũ chúng được. Việc ta cần làm ngay là hãy tập trung vào ông sa môn Gotama. Phải đối phó, phải hạ nhục ông ta trước đã!”
Nghĩ thế xong, bà cho gọi một vị quan hậu cung thân tín, tìm gặp những tay đầu sỏ du đãng, côn đồ, trộm cắp trong kinh thành, tung tiền bạc cho chúng, chỉ để làm duy nhất một việc như sau: “Bất cứ đâu, bất cứ lúc nào, sa môn Gotama và đệ tử của ông trì bình khất thực, đi và về trên các ngả đường; bọn chúng phải mắng nhiếc, lăng mạ, chửi rủa bằng bất cứ lời tiếng gì cay độc nhất, xấu xa nhất, thô bỉ nhất, hèn hạ nhất, dơ bẩn nhất… Càng chửi hăng chừng nào, nhục mạ giỏi chừng nào sẽ được tiền thưởng nhiều chừng ấy!”
Thế là ngày hôm kia, khi Đức Phật dẫn đầu Tăng chúng chừng trăm vị, có thị giả Nāgita theo hầu, từ lâm viên Ghositārāma bộ hành đi đến nhà ông bà triệu phú Ghosaka, khi vừa ngang con lộ dẫn vào thành phố thì một bọn đầu trộm đuôi cướp ở đâu đó ùa ra chửi rủa, nhiếc mắng…
Đức Phật biết chuyện này nên nói nhỏ vừa đủ cho chư Tăng bên sau nghe:
– Bà thứ hậu Māgaṇḍiyā trả thù đấy! Hôm nay họ sẽ nhiếc về những con thú!
Và quả vậy! Nào là “Những con chó hủi, hãy lủi đi khỏi thành phố!” Nào là “Này, đàn bò lộn giống, hãy cút đi!” Nào là “Này, bọn heo đê tiện! Kinh thành này không phải là cái máng heo cho bọn bây!”… Chúng chửi nhiều lắm, chúng ví von nhiều lắm! Từ chó, bò, heo rồi sang chuột đồng, bọ hung, lừa, lạc đà, súc sanh, sâu kiến, dòi bọ… hay bất cứ con vật xấu xí nào mà chúng vừa nghĩ ra được! Tuy nhiên, các vị Thánh nghe thì mỉm cười trong tâm, còn phàm Tăng, kể cả tôn giả Ānanda thì nghe xốn tai, tức không chịu nổi.
Thế rồi, ngày thứ hai, ngày thứ ba, ngày thứ tư… hết thú vật, chúng quay sang chưởi mắng ma xó, quỷ đói, dạ-xoa thúi… Hết ma quỷ, dạ-xoa… chúng quay sang phỉ báng người: Bọn bay là kẻ ngu si, quân cướp ngày, phường ăn bám, bọn ăn hại, lũ điên khùng… Hết người chúng nói ra những cái dơ bẩn nhất như hầm phân, đống dòi, máu dơ, đàm dãi, nước tiểu, cầu xí…
Hôm ấy, khi đã về đến tu viện, chúng còn tập họp cả một đám người say rượu dữ dằn, mặt đỏ như mặt trời, lăm lăm đùi gậy, đao kiếm với sát khí đằng đằng rồi cất tiếng hăm dọa nữa:
– Chúng tao gởi lời tối hậu cho Sa môn Gotama và bè lũ, là hãy cút khỏi Kosambī, bằng không sẽ không an toàn tánh mạng, sẽ bỏ xác trên những con đường đấy!
Một vị tỳ khưu có vô lậu, có thắng trí, bạch với Đức Phật rằng:
– Có nên sử dụng năng lực để giáo hóa chúng không, bạch Đức Tôn Sư?
– Chưa cần thiết đâu, này con trai! Lửa bùng lên ở đâu thì lửa sẽ tự tắt ở đấy!
Đức Ānanda thưa:
– Chúng mạ lỵ, phỉ báng quá đáng, đệ tử không chịu nổi. Hay là chúng ta đi qua nơi khác?
– Đi đâu hở Ānanda?
– Thị trấn nào, thành phố nào cũng được!
– Vậy nếu ở đó cũng bị chửi rủa, mắng nhiếc nữa thì ta phải làm sao?
– Thì ta lại đi sang vùng khác.
– Nếu vùng khác ấy lại được tái diễn sự việc giống như mấy ngày hôm nay thì ta phải làm sao?
– Thì ta sẽ đi nữa!
Đức Phật mỉm cười, nụ cười dịu dàng và mát mẻ như vầng trăng mùa thu:
– Và nếu cứ đi nữa, đi mãi cho đến hết kiếp quả địa cầu cũng sẽ không có nơi đâu là an toàn, là an ổn, là vừa lòng, là toại ý ta được. Đấy là định luật của pháp, sự thực bất toàn của pháp! Chẳng nên làm thế đâu, Ānanda! Chỗ nào mà ngại pháp, chướng pháp, hại pháp, não pháp phát sanh thì ta sẽ lắng nghe, chịu đựng, rỗng không, tĩnh lặng, từ, nhẫn, xả để làm lắng dịu chúng, xa lìa chúng, đoạn trừ chúng, dập tắt chúng… ngay tại chỗ ấy.
Đại đức Ānanda tuy hiểu biết sâu xa vấn đề ấy, nhưng không biết tại sao trong tâm vẫn còn chưa yên:
– Vậy biết bao giờ mới chấm dứt, thưa Tôn Sư?
– Loại phiền não này phát sanh từ đâu, do đâu hở Ānanda?
– Thưa, chúng thuộc “khẩu thiệt”, xàm ngôn, loạn ngữ, ác khẩu…
– Ừ, nếu chúng thuộc khẩu, đối với Như Lai, đối với một vị Chánh Đẳng Giác thì không có một năng lực lời tiếng nào của thế gian có thể tồn tại quá bảy ngày. Vậy, sau bảy ngày, chúng sẽ tự diệt, này Ānanda!
Buổi chiều, trong giờ pháp thoại, Đức Phật giảng một thời pháp liên hệ đến nội dung kể trên rồi cũng kết luận tương tự:
– Như một thớt voi ra giữa trận tiền, phải hứng chịu hằng trăm ngàn mũi tên, hòn đạn từ bốn phía bắn vào; cũng vậy, là sa-môn khất sĩ như Như Lai và chúng đệ tử của Như Lai đi giữa cuộc đời cũng phải nhận chịu tất thảy tiếng lời gièm pha, nhiếc mắng, mạ lỵ, phỉ báng, sỉ nhục từ những người không có đức tin, kẻ thiểu trí, ác giới, cuồng si, điên loạn. Vậy phải biết nhẫn nhục, mát mẻ, vắng lặng, rỗng không với tâm từ, với tâm xả! Làm được như thế mới thật xứng đáng là phẩm hạnh của sa-môn ôm bát xin ăn cao thượng đi giữa cuộc đời.
Rồi đức Phật đọc lên một bài kệ:
“- Thớt voi đứng giữa trận tiền
Hứng bao mũi đạn, lằn tên sá gì
Như Lai chịu đựng ác tri
Nhẫn chịu ác giới, ngu si lòng người”
Dường như muốn bổ túc thêm cho tròn đầy ý nghĩa, đức Phật đọc thêm hai bài kệ nữa.
Một, nhấn mạnh đức tính nhẫn nại vô úy và vô thượng của sa-môn:
“- Ngựa, voi đã luyện, đã thành
Con nào thuần nhất để dành vương quân
Cao thượng nhất giữa nhân quần
Chịu đựng phỉ báng, dao đâm tiếng lời!”
Hai, nói lên đức tính quý báu của sa-môn là phải tự thu thúc, tự điều tiết, tự chế ngự lời nói và hành động:
“- Con la tinh thục quý thay
Ngựa kỳ, ngựa ký tung mây, quý là!
Quý sao, voi lớn có ngà
Quý hơn tất cả, chính ta tự điều!”
Rồi đúng như Đức Phật tiên tri, bảy ngày sau thì chuyện nhiếc mắng, phỉ báng kia tự động chấm dứt. Lý do là bà thứ hậu thấy tốn vàng, tốn bạc quá mức, nhưng “ông Gotama và đệ tử của ông ta” cứ “trơ trơ” như khúc gỗ, xem ra chẳng có tác dụng gì! Bà đành chịu thua, sẽ nghĩ cho ra mưu kế thâm độc khác.
Hôm kia, nhằm ngày đức vua đãi yến các quan đại thần, thứ hậu Māgaṇḍiyā khởi tâm xin vua được trông coi công việc ngự thiện. Bà nảy sanh ý nghĩ là phải trả thù chánh hậu Sāmāvatī cùng mấy trăm cung nga thể nữ mà theo bà, chúng nó cứ xu hướng sa môn Gotama, tin tưởng sa môn Gotama thật là dễ ghét.
Để khởi đầu mưu thâm kế độc của mình, bà bàn chuyện với ông chú ruột Cūḷamāgaṇḍi, bây giờ nghiễm nhiên là bậc quốc trượng, những việc cần làm và làm những gì, làm như thế nào. Trong đó có việc, nhờ ông chú mang đến tám con gà trống loại quý hiếm đang còn sống và tám con gà trống đã chết. Còn mọi việc trong triều, bà Māgaṇḍiyā đã tỉ tê bàn tính với viên cận thần bồi yến, viên cận thần hầu rượu và đút lót cho họ đâu vào đấy cả rồi!
Đúng giờ hẹn, ông quốc trượng Cūḷamāgaṇḍi mang đến cung một chiếc lồng lớn được che chắn kín đáo, trịnh trọng đến dâng cho đức vua, tâu rằng:
– Đây là tám con gà trống, chúng có sắc lông đen tuyền, theo thầy thuốc cho biết, nếu nấu cháo hầm với gạo lúa sālī, chưng thêm nhân sâm thì chắc gân, bổ xương và còn cường dương, tráng kiện nữa. Cả kinh thành này, hạ thần lùng mua, chỉ có được tất thảy là tám con, hôm nay xin được dâng lên bệ hạ, chúc sức khỏe của người và chúc người sống lâu muôn tuổi.
Đức vua rất đẹp dạ, cười ha ha:
– Quý hóa thay! Nhưng mà sống làm chi đến muôn tuổi dữ vậy?
Ông quốc trượng còn cẩn thận hé lồng cho vua thấy vài con gà loại quý hiếm ấy, vì thật ra, chỉ được mấy con gà đen, số còn lại là gà thường và cả tám con gà chết nữa, rồi trao cho viên cận thần bồi yến, đều là một phe của ông ta cả.
Viên cận thần hầu rượu lại góp ý cho mưu kế của bà thứ hậu được vẹn toàn:
– Chỉ có hoàng hậu Sāmāvatī vốn cẩn thận, chu đáo mới có khả năng sai bảo, chỉ bày cho các cung nữ làm món ăn “thích khẩu” này để kính dâng bệ hạ ngự thiện mà thôi!
Viên cận thần hầu rượu đế thêm:
– Đúng vậy đó, tâu đại vương! Làm món ấy không ai bằng đức chánh cung!
Đức vua đâu có biết đấy là mưu kế gì, cứ vô tư ừ hử gật đầu.
Thế rồi, viên cận thần bồi yến, mang lồng gà ra sau, giấu tám con gà chết, mang tám con gà sống đến cung hoàng hậu truyền đạt lệnh của đức vua, đồng thời kể lại cách làm món ngự thiện ấy.
Thấy tám con gà đang còn sống, hoàng hậu ngần ngại chưa biết nói sao thì cô thị nữ Khujjuttarā lưng gù la bai bãi:
– Không được đâu là không được đâu! Chúng tôi ở đây ai cũng giữ gìn giới hạnh trong sạch cả. Chẳng ai đang tay giết hại mạng sống của chúng sanh. Xin cảm phiền ông mang đi chỗ khác. Việc ấy thì nhà trù hoàng gia làm cũng được mà!
Viên cận thần đưa mắt có vẻ hỏi han, nhìn hoàng hậu Sāmāvatī. Bà nhè nhẹ, mỉm cười:
– Đúng như vậy đó! Tại bổn cung, ai cũng giữ năm giới hoặc tám giới cả. Ông hãy về tâu trình lại với hoàng thượng điều ấy, đích thân ta sẽ nói với ngài sau.
“ Vậy là khớp với kế hoạch”, nghĩ thế xong, viên cận thần trở lại trình báo với đức vua, kể lại việc hoàng hậu từ chối việc làm thịt tám con gà sống.
Đức vua im lặng chưa tỏ thái độ gì, thì thứ hậu Māgaṇḍiyā đã mau mắn nói:
– Chỉ là cách viện cớ để thoái thác công việc một cách khôn ngoan thôi, tâu đại vương!
– Tại sao? Vua nhăn mày hỏi.
Bà Māgaṇḍiyā được dịp tố cáo:
– Từ khi thiếp phát giác những cái lỗ tròn, biết hoàng hậu Sāmāvatī và các cung nữ ở đấy đã có “chuyện gì đó” với ngoại nhân mà bệ hạ không tin. Cụ thể họ đã có tâm địa khác với sa môn Gotama, có xu hướng đến sa-môn Gotama, nghiêng lệch về phía sa môn Gotama, vì ông ta tướng hảo quang minh, cao sang, đẹp đẽ; nữ nhân nào nhìn ông ta, thấy ông ta mà không rung động trái tim? Vậy đó! Nếu muốn xác chứng sự thật ấy, bệ hạ hãy nói lại với họ là làm món này để dâng cúng cho sa môn Gotama là họ sẽ làm ngay tức khắc cho coi! Với bệ hạ thì họ viện cớ chuyện sát sanh, còn đối với sa môn Gotama thì lại khác, họ sẵn sàng giết, hoan hỷ giết! Bên nào khinh, bên nào trọng, bệ hạ thử là biết ngay liền hà!
Nghe được chuyện ấy, đức vua Udena lòng chùng xuống, rồi bất giác, ông gật đầu:
– Ừ, cứ thử vậy xem!
Viên cận thần bồi yến “tâu vâng” rồi lanh lẹ ra lối sau, tráo tám con gà sống, lấy tám con gà chết mang đến cung của hoàng hậu Sāmāvatī:
– Tâu! Đức vua biết chánh hậu là người có giới nên sai hạ thần mang tám con gà chết này để cung nữ làm món ăn đặc biệt rồi dâng cúng đến sa môn Gotama!
Mấy cô thị nữ bên cạnh thấy “vật đã chết rồi”, lại dâng cúng cho sa môn Gotama nữa nên họ mau mắn nhận gà rồi hoan hỷ nói:
– Việc làm này là chân chính! Đúng là phận sự của chúng tôi đây!
(Còn tiếp)