Tuy có nhiều xứ lớn, kinh thành lớn, nhưng Đức Thế Tôn không chọn làm nơi tịch diệt Niết Bàn của Ngài, mà chọn xứ Kusinārā bởi có 3 lý do:
1- Trong quá khứ, xứ Kusinārā là một kinh thành rộng lớn có tên là kinh thành Kusavatī, có Đức Chuyển Luân Thánh Vương Mahādassana trị vì tứ châu thiên hạ. Nếu Đức Thế Tôn tịch diệt Niết Bàn nơi khác, thì không có lý do thuyết bài kinh Mahādassanasutta. Do đó, Ngài chọn xứ Kusinārā làm nơi tịch diệt Niết Bàn, để Ngài có cơ hội thuyết bài kinh Mahādassanasutta, chúng sinh lắng nghe bài kinh này sẽ phát sinh đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, cố gắng tinh tấn tạo mọi thiện pháp.
2- Đạo sĩ Subhadda là người đệ tử cuối cùng của Đức Thế Tôn, hiện đang ở tại xứ Kusinārā. Ngoài Đức Thế Tôn ra, không có vị Thánh Thanh Văn nào có khả năng tế độ Đạo sĩ Subhadda được. Do đó, Đức Thế Tôn phải đến xứ Kusināra để tế độ cho Đạo sĩ Subhadda người đệ tử cuối cùng của Ngài, Tỳ khưu Subhadda sẽ chứng đắc thành bậc Thánh Arahán, trước khi Đức Thế Tôn tịch diệt Niết Bàn.
3- Đức Thế Tôn biết rõ rằng, sau khi Ngài tịch diệt Niết Bàn, làm lễ hỏa táng xong, các nước lớn sẽ kéo đến tranh giành Xá lợi của Ngài, do đó có thể gây ra chiến tranh giữa các xứ với nhau. Đức Thế Tôn thấy rõ, biết rõ chỉ có Bàlamôn Doṇa là người có khả năng đứng ra làm trung gian hòa giải các Đức vua từ các nước lớn và biết cách phân chia các Xá lợi cho mỗi xứ thỉnh đem về xây Bảo tháp thờ Xá lợi. Vị Bàlamôn Doṇa hiện đang ở tại xứ Kusinārā, nên Đức Thế Tôn quyết định chọn xứ Kusinārā làm nơi tịch diệt Niết Bàn của Ngài.
Đó là 3 lý do chính mà Đức Thế Tôn chọn xứ Kusi- nārā làm nơi tịch diệt Niết Bàn của Ngài.
Đêm cuối cùng của Đức Thế Tôn
Đêm cuối cùng của Đức Thế Tôn là đêm rằm tháng tư (âm lịch).
– Canh đầu: Nghe tin canh chót đêm ấy, Đức Thế Tôn sẽ tịch diệt Niết Bàn tại khu rừng Sālā. Đức vua, Hoàng hậu, Hoàng tử, Công chúa cùng các bậc bô lão trong hoàng tộc Malla, cùng hoàng thân quốc thích tuần tự đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn lần cuối cùng, tiếp theo các quan trong triều, toàn thể dân chúng xứ Kusinārā tuần tự đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn lần cuối cùng, kéo dài trọn canh đầu.
– Canh giữa: Đạo sĩ Subhadda nghe tin Đức Thế Tôn sắp tịch diệt Niết Bàn vào canh chót đêm âý, nên nghĩ rằng: “Ta có nhiều điều thắc mắc, đã từ lâu chưa có một vị Samôn nào có thể giải đáp, giúp làm cho ta đoạn tuyệt được thắc mắc ấy. Nay nghe tin Samôn Gotama, Đức Phật Chánh Đẳng Giác ngự đến xứ này, Ngài đang ở tại khu rừng Sālā sắp tịch diệt Niết Bàn vào canh chót đêm nay. Ta nên đến hầu Ngài, để hỏi những điều thắc mắc của ta, kính nhờ Ngài giải đáp.”
Đạo sĩ Subhadda đến khu rừng Sālā tìm gặp Đại đức Ānanda xin phép vào hầu Đức Thế Tôn.
Đại đức Ānanda bảo rằng:
– Này Đạo sĩ Subhadda, xin ông không nên quấy rầy, làm phiền Đức Thế Tôn trong lúc này, Đức Thế Tôn mệt quá rồi.
Đạo sĩ Subhadda tha thiết khẩn khoản xin Đại đức Ānanda cho phép vào hầu Đức Thế Tôn.
Nghe Đại đức Ānanda và Đạo sĩ Subhadda đang nói chuyện qua lại với nhau, Đức Thế Tôn truyền dạy Đại đức Ānanda rằng:
– Này Ānanda, con không nên ngăn Subhadda, để cho Subhadda đến gặp Như Lai.
Đạo sĩ Subhadda có cơ hội đến hầu vấn an Đức Thế Tôn xong, ngồi một nơi hợp lẽ, Đạo sĩ Subhadda bạch rằng:
– Kính bạch Samôn Gotama, các Samôn, Bàlamôn là Đạo sư, trưởng phái có tiếng tăm có oai lực đứng đầu một môn phái, mà phần đông dân chúng tán dương ca tụng, tôn sùng là bậc Thánh Thiện. Như các vị Đạo sư Puraṇa kassapa, Makkhali gosāla, Ajita Kesakambalạ, Pakudha kaccayana, Sañjaya Belaṭṭhaputta, Nigaṇṭhanāṭaputta tất cả Samôn, Bàlamôn ấy đã chứng đắc như họ đã tuyên bố, hoặc tất cả không chứng đắc, hoặc có một số chứng đắc, một số không chứng đắc. Bạch Ngài.
Đức Thế Tôn dạy rằng:
– Này Subhadda, con không nên đề cập đến vấn đề ấy, con nên lắng nghe Như Lai thuyết pháp.
Này Subhadda, Thánh Đạo hợp đủ 8 chánh không có trong pháp luật nào, thì chắc chắn không có theo tuần tự Samôn thứ nhất bậc Thánh Nhập Lưu, Samôn thứ nhì bậc Thánh Nhất Lai, Samôn thứ ba bậc Thánh Bất Lai, Samôn thứ tư bậc Thánh Arahán trong pháp luật ấy.
Này Subhadda, Thánh Đạo hợp đủ 8 chánh có trong pháp luật nào, thì chắc chắn có tuần tự Samôn thứ nhất bậc Thánh Nhập Lưu, Samôn thứ nhì bậc Thánh Nhất Lai, Samôn thứ ba bậc Thánh Bất Lai, Samôn thứ tư bậc Thánh Arahán trong pháp luật ấy.
Này Subhadda, Thánh Đạo hợp đủ 8 chánh chỉ có trong pháp luật của Như Lai mà thôi, cho nên, chắc chắn có tuần tự Samôn thứ nhất bậc Thánh Nhập Lưu, Samôn thứ nhì bậc Thánh Nhất Lai, Samôn thứ ba bậc Thánh Bất Lai, Samôn thứ tư bậc Thánh Arahán trong pháp luật của Như Lai. Ngoài pháp luật này của Như Lai ra, những tà giáo khác không có Samôn nào cả.
Này Subhadda, chư Tỳ khưu trong pháp luật này sống thực hành đúng theo pháp hành bát chánh đạo, và truyền dạy chỉ dẫn người khác cũng thực hành đúng theo pháp hành bát chánh đạo, thì trong đời này không vắng chư bậc Thánh Arahán.
Sau khi lắng nghe lời giáo huấn của Đức Thế Tôn, Đạo sĩ Subhadda vô cùng hoan hỷ, tán dương ca tụng Đức Thế Tôn. Xin quy y nương nhờ nơi Đức Phật, nơi Đức Pháp, nơi Đức Tăng, xin xuất gia trở thành Sadi, Tỳ khưu trong giáo pháp của Ngài.
Đức Thế Tôn cho phép Đạo sĩ Subhadda xuất gia trở thành Tỳ khưu.
Sau khi trở thành Tỳ khưu, Đại đức Subhadda ở một mình nơi thanh vắng, không dể duôi, tiến hành thiền tuệ dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo – 4 Thánh Quả và Niết Bàn, trở thành bậc Thánh Arahán, trước khi Đức Phật tịch diệt Niết Bàn.
Đại đức Subhadda là người đệ tử cuối cùng của Đức Thế Tôn.