TIPIṬAKADHARA TIPIṬAKAKOVIDA DHAMMABHAṆḌĀGĀRIKA BẬC THÔNG THUỘC VÀ THẤU SUỐT TAM TẠNG – BẬC GIỮ GÌN KHO TÀNG PHÁP BẢO
Ngài Đại Trưởng Tam Tạng VI Sayadaw Bhaddanta Vāyāmindhābhivaṁsa thông thuộc thấu suốt tất cả Tam tạng Kinh điển lúc Ngài 35 tuổi. Ngài học Tam tạng Kinh điển trong suốt 22 năm thì thông thuộc tất cả. Ngài là một người luôn nỗ lực phấn đấu không ngừng trong việc học tập, cố gắng tích lũy kiến thức và làm nhiều công việc đem lại lợi ích cho giáo Pháp và đại chúng. Ngài Tam Tạng Vāyāmindhābhivaṁsa là vị Tam Tạng thứ 6 trong 14 vị Tam Ttạng từ trước đến nay tại Myanmar (Miến Điện). Ngài là vị Tam tạng thứ 2 trong 10 vị Tam tạng hiện đang còn sống, 4 vị Tam tạng đầu tiên đã viên tịch.
TIỂU SỬ CỦA NGÀI ĐẠI TRƯỞNG LÃO TAM TẠNG VI
Ngài thường được biết đến với pháp danh là Ngài Tam Tạng Ye-sa-gyo Sayadaw Bhaddanta Vāyāmindhābhivaṁsa. Thế danh của Ngài là Maung Hla Thun, Ngài sinh vào thứ tư, ngày 23 tháng 02 năm 1955 (PL 2499), tại làng Shwe-kyaung , Thị xã Ye-sa-gyo, xứ Pa-kok-ku, thuộc tỉnh Ma-gway, Myanmar. Song thân của Ngài là cụ ông U Bha Yi và cụ bà Daw Uon.
THỜI THƠ ẤU & XUẤT GIA LÀM SA-DI
– Khi Ngài sinh ra được 3 ngày thì cha Ngài qua đời. Ngài được sống trong tình yêu thương của mẹ đến năm 6 tuổi thì mẹ Ngài cũng từ giã cõi đời. Sau đó 1 năm Ngài được gửi vào chùa để sống và học hành.
THỌ GIỚI SA DI
– Năm 13 tuổi, vào thứ năm, ngày 14 tháng 6 năm 1968 (PL 2511), Ngài xuất gia Sa di với pháp danh là Vāyāminda tại ngôi chùa Myauk-kyaung, thị xã Ye-sa-gyo, với Thầy tế độ là Ngài Đại Trưởng lão Sayadaw Bhaddanta Nanda. Thí chủ làm lễ xuất gia là thân bằng quyến thuộc của Ngài.
THỌ GIỚI TỲ-KHƯU
– Năm 20 tuổi (1974), vào Chủ nhật, ngày 25 tháng 10 năm 1974 (PL 2518). Ngài thọ giới đại giới Tỳ-khưu tại chùa Ywa Lay, thị xã Nyaung Don với với vị Thầy Tế độ là Ngài Đại Trưởng lão Nandavaṁsa, thí chủ hộ pháp là gia đình ông bà ông U Bo Wa, bà Dwa Sien Tin, thương gia ở thị xã Nyaung Don.
Ngài là một vị Tỳ khưu có đủ giới đức, định đức, tuệ đức được phần đông chư Tỳ khưu, Sa di và những cận sự nam, cân sự nữ có đức tin trong sạch kính trọng. Để tỏ lòng tôn kính Ngài, các thí chủ thường kính xin tổ chức nhiều lần lễ Dalhīkamma, cung thỉnh chư Đại đức Tăng tụng Natti – Catutthakammavācā để cúng dường Ngài.
HÀNH TRÌNH HỌC VÀ THI TAM TẠNG
Trong quá trình tu tập, Ngài đã theo học với các bậc Đại trưởng lão danh sư Phật giáo uyên thâm như :
– Với Ngài Đại trưởng lão Sayadaw Bhaddanta Neminda, Sayadaw Bhaddanta Nadna tại chùa Myauk-kyaung, thị xã Ye-sa-gyo ;
– Với Ngài Đại trưởng lão Sayadaw Bhaddanta Vimala, tại chùa Wun Min, Học viện Hta The, thị xã Ye-sa-gyo ;
– Với Ngài Đại trưởng lão Sayadaw Bhaddanta Dhammapālā, tại chùa Dhammamancū, Học viện Hta The, thị xã Ye-sa-gyo ;
– Với đồng Tăng trưởng phái Shwe Chin tại Đại tự viện Shwe Hin Hta To Ya, thị xã Nyaung Don gồm:
– Ngài Đại trưởng lão Sayadaw Bhaddanta Vimala (Abhidhajamahāratthaguru),
– Ngài Sayadaw Bhaddanta Nānavamsa
– Ngài Sayadaw Bhaddanta Indāvamsabhivaṁsa
– Ngài Sayadaw Bhaddanta Indāvudhannanābhivaṁsa
– Ngài Sayadaw Bhaddanta Kusalābhivaṁsa
– với Ngài Đại trưởng lão Sayadaw Bhaddanta Obhāsā, tại Đại tự viện Mahāvihāra To Ya, thị xã Da Nu Phyu
– Với Ngài Đại trưởng lão Sayadaw Bhaddanta Kumārābhivaṁsa (Aggamahāpaṇḍita), tại chùa Ban Mo, Đại tự viện Mahāvisuddhāyuṁ, thành phố Mandalay
– Đặc biệt hơn cả là Ngài đã được thọ giáo với Ngài Đại trưởng lão Đệ nhất Tam Tạng Mingun Sayadaw Bhaddanta Vicittasārābhivaṁsa, Tipiṭakadhara Dhammabhaṇḍāgārika (Abhidhajamahāratthaguru, Abhidhajamahāsadhammajotika) tại Đại tự viện Tipitakannikāya, Mo Meik Kun Myay, tỉnh Sa Gaing, cũng như rất nhiều chư bậc Đại trưởng lão uyên thâm khác.
TÁN DƯƠNG CÔNG ĐỨC CỦA NGÀI TAM TẠNG VI:
Ngài Đại Trưởng Lão Tam Tạng VI Sayadaw Bhaddanta Vāyāmindhābhivaṁsa là một bậc có trí nhớ thuộc lòng chính xác, có trí tuệ tuyệt vời, cho nên Ngài đã vượt qua rất nhiều các kỳ thi do chính phủ và Bộ Tôn giáo Myanmar tổ chức.
Có thể kể ra một số danh hiệu cao quý mà chính phủ và Bộ Tôn giáo Myanmar đã kính dâng lên Ngài như sau:
1. Năm 18 tuổi (1973). Ngài đậu thủ khoa trong kỳ thi Dhammācariya. Do vậy, chính phủ và Bộ Tôn giáo Myanmar kính dâng Ngài danh hiệu Aggamahā – Kyo. Đây là danh hiệu đặc biệt trong kỳ thi Dhammācariya toàn quốc năm đó vì Ngài đậu thủ khoa khi vẫn còn là Sadi 18 tuổi (Trong lịch sử mới chỉ có vài vị Sadi đậu thủ khoa khóa Dhammācariya mà thôi).
2. Cùng năm đó, Ngài được hội Shwe Chin Nikāyasāsanāpāla, Nyaung Don kính dâng danh hiệu Sāsanāpāladhammācariya Abhivaṁsa
3. Năm 19 tuổi (1974) Ngài được chính phủ và Bộ Tôn giáo Myanmar kính dâng danh hiệu Sāsanadhaja Sīrīpavara Dhammācariya khi vẫn còn là sadi.
4. Năm 23 tuổi (1978) Ngài được chính phủ và Bộ Tôn giáo Myanmar kính dâng danh hiệu Vinayadhara.
5. Năm 23 tuổi (1978) Ngài được Hiệp hội Phật giáo tại thủ đô Yangon kính dâng danh hiệu Nikāyujjotakavinayadhara.
6. Năm 25 tuổi (1980) Ngài được chính phủ và Bộ Tôn giáo Myanmar kính dâng danh hiệu Vinayapāḷipāragū và danh hiệu Vinayakovida.
7. Năm 25 tuổi (1980). Ngài được Hiệp hội Mangalāvati Visuddhi tại Yangoon kính dâng danh hiệu Gambhīranānikavinayadhara.
8. Năm 23 tuổi (1978) Ngài được Hiệp hội Phật giáo tại thủ đô Yangon kính dâng danh hiệu Nikāyujjotakavinaya Dhammācariya.
9. Năm 26 tuổi (1981), Ngài được chính phủ và Bộ Tôn giáo Myanmar kính dâng danh hiệu Dīghabhānaka.
10. Năm 28 tuổi (1983), Ngài được chính phủ và Bộ Tôn giáo Myanmar kính dâng danh hiệu Dīghanikāyakovida.
11. Năm 28 tuổi (1983) Ngài được Hiệp hội Phật giáo tại thủ đô Yangon kính dâng danh hiệu Nikāyujjotakadīghanikāya Dhammācariya.
12. Năm 30 tuổi (1985), Ngài được chính phủ và Bộ Tôn giáo Myanmar kính dâng danh hiệu Abhidhammapāḷipāragū.
13. Năm 32 tuổi (1987) Ngài được Hiệp hội Phật giáo tại thủ đô Yangon kính dâng danh hiệu Nikāyujjotaka Atthavisārada Mūla Ābhidhammika.
14. Năm 35 tuổi (1991) Ngài được Ngài Đại Trưởng lão Pye Tipiṭakadhara Sayadaw, tại Thủ đô Yangon kính dâng danh hiệu Nikāyujjotaka Atthavisārada Majjhima Ābhidhammika.
15. Năm 36 tuổi (1992), Ngài được chính phủ và Bộ Tôn giáo Myanmar kính dâng danh hiệu Ābhidhammika.
16. Năm 36 tuổi (1992), Ngài được Ngài Đại Trưởng lão Kyauk Thap Kyi Sayadaw, tại Yangon dâng danh hiệu đặc biệt xuất sắc Nikāyujjotaka Atthavisārada Upari Ābhidhammika.
17. Năm 36 tuổi (1992). Ngài được Hiệp hội Phật giáo tại thủ đô Yangon kính dâng danh hiệu Nikāyujjotaka Aatthavisārada Ābhidhammika.
18. Năm 37 tuổi (1993), Ngài được chính phủ và Bộ Tôn giáo Myanmar kính dâng danh hiệu Tipiṭakadhara.
19. Năm 39 tuổi (1995), Ngài được chính phủ và Bộ Tôn giáo Myanmar kính dâng danh hiệu Abhidhammakovida.
20. Năm 39 tuổi (1995) Ngài được chính phủ và Bộ Tôn giáo Myanmar kính dâng danh hiệu Tipiṭakakovida.
21. Năm 44 tuổi (1999) Ngài được chính phủ và Bộ Tôn giáo Myanmar kính dâng danh hiệu Aggamahāpaṇḍita.
22. Năm 46 tuổi (2001) Ngài được chính phủ và Bộ Tôn giáo Myanmar kính dâng danh hiệu Tipiṭakadhara Dhammabhaṇḍāgārika và còn rất nhiều danh hiệu cao quý khác.
Như vậy, năm 1993, trong kỳ thi Tam tạng lần thứ 45, Ngài Trưởng lão Tam Tạng Sayadaw Bhaddanta Vāyāmindābhivaṁsa đã thi đậu phần tụng đọc thuộc lòng, thông thuộc Tam tạng lúc Ngài 37 tuổi. Do đó, Chính phủ Myanmar kính dâng lên Ngài danh hiệu Tipiṭakadhara (Bậc Cao thượng thông thuộc Tam tạng)
Sau đó 2 năm (1995), trong kỳ thi Tam tạng lần thứ 47, lúc 39 tuổi, Ngài đã thi đậu phần thi viết, Ngài đã thông thuộc và thấu suốt toàn bộ Tam tạng, Chú giải và Phụ chú giải. Do vậy, Chính phủ Myanmar kính dâng lên Ngài danh hiệu cao thượng bậc nhất là Tipiṭakadhara, Tipiṭakakovida – Bậc Cao thượng thông thuộc và thấu suốt Tam tạng.
Năm 1995 (PL2539) chính phủ Myanmar kính dâng đến Quý Ngài danh bằng, cờ hiệu và một khuôn dấu tròn : bên trong có biểu tượng 3 lọng trắng cán vàng (vị nào chỉ đậu Tipiṭakadhara : Bậc thuộc lòng Tam tạng, thì được dâng danh bằng, cờ hiệu và khuôn dấu biểu tượng 3 lọng trắng cán đỏ), một bên hình con dấu Chính phủ Myanmar và một bên hình tròn ngôi sao 5 cánh, đường viền tròn bên ngoài có ghi dòng chữ danh hiệu của Ngài là : Tipiṭakadhara, Tipiṭakakovida Bhaddanta Vāyāmindhābhivaṁsa
Ngoài ra, Chính phủ Myanmar còn hộ độ cúng dường Ngài và 2 vị đệ tử theo Ngài những chỗ ngồi thượng hạng trên mọi phương tiện đi lại như : máy bay, xe lửa, … mỗi khi Ngài quang lâm đến nơi nào xa gần trong nước. Bên cạnh đó, chính phủ Myanmar cũng hộ độ cúng dường các thứ vật dụng đến Ngài cùng chư Tỳ khưu, Sa di theo học Tam tạng nơi ngôi chùa nào mà Ngài thường trú.
ĐỀN ƠN QUÊ HƯƠNG, THẦY TỔ:
Ngài Trưởng lão Tam tạng Sayadaw Bhaddanta Vāyāmindhābhivaṁsa có đức tin cao quý tri ân và báo ân chư bậc Thầy Tổ, nhất là Ngài Đại trưởng lão Đệ nhất Tam Tạng Sayadaw Bhaddanta Vicittasārābhivaṁsa. Ngài Tam Tạng thứ VI là vị Tam Tạng đầu tiên xuất thân từ Đại tự viện Tipiṭakanikāya mà Ngài Đại Trưởng lão Tam Tạng Sayadaw Mingun đã thành lập, đào tạo Tăng tài theo học Tam Tạng để duy trì pháp học Phật giáo được tồn tại lâu dài trên thế gian.
Sau khi, Ngài Đại trưởng lão Đệ nhất Tam Tạng Sayadaw Mingun viên tịch (DL.1992), Ngài Trưởng lão Tam Tạng Sayadaw Bhaddanta Vāyāmindhābhivaṁsa kế thừa, đứng ra đảm nhiệm trọng trách dạy dỗ chư Tỳ khưu, Sa di để đào tạo chư Tỳ khưu, Sa di trở thành những vị Tam Tạng mai sau, theo ý nguyện của Ngài cố Đại trưởng lão Đệ nhất Tam tạng Sayadaw Mingun (tại Đại tự viện này, ngoài Ngài ra, sau này còn có 6 vị đã thi đậu Tam Tạng).
Để hoằng dương Phật Pháp, Ngài Đại trưởng lão Tam Tạng Sayadaw Bhaddanta Vāyāmindhābhivaṁsa thành lập một Đại học viện là Tipiṭakamahāgantha – vamsanikāya tại thủ đô Yangon, giúp cho phần đông cận sự nam nữ có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo có cơ hội tốt làm phước thiện, cúng dường tứ vật dụng cần thiết đến chư Tỳ khưu ngày đêm cố gắng theo học Tam Tạng, để tạo duyên lành sâu sắc trong Phật giáo. Bên cạnh đó, Ngài còn bảo trợ cho các học viện Phật giáo danh tiếng tại Myanmar như học viện Chatthatipitaka Shwe-ukkampariyatti tại Yangon, học viện Tipiṭakasantāvāsapariyatti tại Mandalay…
Ngoài việc dạy học, đào tạo tăng tài, viết sách và thuyết giảng Phật pháp, Ngài Tam Tạng còn là người lãnh đạo trong ban trị sự trung tâm đào tạo Tam tạng Mingun Tipiṭaka Nikāya, làm cố vấn cho nhiều tổ chức và chi hội Phật học khắp cả nước, xây dựng các trường học, bệnh viện, viện dưỡng lão… để giúp đỡ dân chúng.
GHI NHẬN CÔNG HẠNH CỦA NGÀI
Năm 1999 (PL2543), mặc dù Quý Ngài chỉ mới 44 tuổi và mới có 24 tuổi hạ nhưng vì Ngài là Bậc Hiền Trí có đầy đủ giới đức, định đức, tuệ đức, vì tất cả những công hạnh xiển dương Phật Pháp vĩ đại của Quý Ngài nên Chính phủ Myanmar đã kính dâng Ngài danh hiệu cao quý là Aggamahāpaṇḍita (Bậc Đại Thiện trí cao thượng).
Năm 2001 (PL2545), để tôn vinh sự cao quý của Ngài Tam Tạng VI, Chính phủ và Bộ Tôn giáo Myanmar đã thành kính dâng cúng dường lên Ngài danh hiệu cao quý nhất của Phật Giáo là “Tipiṭakadhara Tipiṭakakovida Dhammabhaṇḍāgārika” (Bậc Thông Thuộc Thấu Suốt Tam Tạng, Bậc Giữ Gìn Kho Tàng Pháp Bảo).
Thật ra, những điều mà chúng ta biết về Ngài Đại Trưởng lão Tam tạng Bhaddanta Vāyāmindhābhivaṁsa thì rất ít so với những điều mà chúng ta chưa được biết về Ngài. Tóm lược tiểu sử Ngài Đại Trưởng lão Tam tạng Bhaddanta Vāyāmindhābhivaṁsa chỉ là một phần rất nhỏ trong muôn ngàn sự nghiệp lớn lao của Ngài mà thôi. Dù chỉ một phần nhỏ như vậy cũng làm cho chúng ta vô cùng kính phục, vô cùng tôn kính cuộc đời và sự nghiệp của Ngài đã đóng góp vào sự bảo tồn, duy trì giáo pháp của Đức Phật Gotama.
Con xin thành kính chúc Quý Ngài Đại Trưởng lão Tam Tạng Bhaddanta Vāyāmindhābhivaṁsa thân tâm thường được an lạc để là nơi nương nhờ cho hàng Phật tử hậu học chúng con.
Sādhu, Sādhu, Lành thay! Anumodāma!
Người dịch: Bhante Kusalaguṇa Thiện Đức